Phân tích

Bước ngoặt phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

(DNVN) - Chính phủ mới đây vừa ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTg về Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025, tạo tiền đề và định hướng phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.

Theo quyết định của Thủ tướng, Chương trình được thực hiện theo 2 giai đoạn: giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 sẽ gồm các hoạt động: kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng ở trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất.Ngoài ra, hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu; xây dựng và vận hành trang thông tin về công nghiệp hỗ trợ.

Giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2025 sẽ gồm các công việc như kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất; hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.

Trong giai đoạn này cũng sẽ đẩy mạnh hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu; cập nhật thông tin về công nghiệp hỗ trợ.

Mục tiêu chung đến năm 2020, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng khoảng 45% nhu cầu cho sản xuất nội địa. Đến năm 2025, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng được 65% nhu cầu cho sản xuất nội địa.

Ngoài ra, tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ thuộc ba lĩnh vực chủ yếu là linh kiện phụ tùng, công nghiệp công nghệ cao và dệt may - da giày.

Theo các chuyên gia kinh tế, nhiều lĩnh vực công nghiệp quan trọng của Việt Nam hoặc chưa được coi trọng, hoặc đầu tư dàn trải, manh mún, tự phát dẫn đến giá trị gia tăng thấp. Việt Nam muốn phát triển ngành công nghiệp bền vững thì không có con đường nào khác, phải tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, bởi nó chính là cơ sở để phát triển, tăng trưởng một ngành công nghiệp bền vững.

Ảnh minh họa.

Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm chung nhất đối với thuật ngữ này. Tùy theo từng hoàn cảnh, mục đích sử dụng mà mỗi quốc gia đều có cách định nghĩa riêng. Ở Việt Nam, kể từ khi thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ” được nhắc đến trong Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản, chính thức thông qua vào năm 2003, nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong việc thu hút dòng vốn FDI, người ta mới bàn luận nhiều về ngành công nghiệp hỗ trợ.

Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ, gồm quy mô thị trường; minh bạch thông tin và nguồn nhân lực. Ngoài ra, những chính sách của chính phủ như chính sách thuế (giảm thuế và ưu đãi về thuế) và các chính sách hỗ trợ khác (hỗ trợ công nghệ, tài chính, đào tạo...) là công cụ quan trọng trong việc thúc đẩy công nghiệp phụ trợ phát triển.

Các chuyên gia Nhật Bản cho rằng nguồn nhân lực đặc biệt là nhân lực có trình độ cao quan trọng hơn rất nhiều so với máy móc hiện đại. Bởi nếu chỉ đơn thuần dựa vào máy móc dây chuyền thì sẽ không tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì các quốc gia đều có thể sở hữu chúng. Do vậy, điểm làm nên sự khác biệt ở các quốc gia chính là đội ngũ nhân công có tay nghề cao. Bởi chính họ là những người trực tiếp vận hành, cải tiến máy móc, phát minh ra những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả công việc, năng xuất cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã tiếp cận khá thuận lợi nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam đang bỏ lỡ một cơ hội lớn là trong khi các nguồn vốn đầu tư nước ngoài chảy vào mạnh thì khả năng hấp thụ, tiếp thu chuyển giao công nghệ từ khối doanh nghiệp FDI lại hạn chế. Lý do là Việt Nam thiếu vắng hẳn một nền công nghiệp hỗ trợ. Hay nói cách khác là có quá ít doanh nghiệp Việt Nam làm công nghiệp hỗ trợ, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu đóng gói, bao bì.

Hiện tại, các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho các công ty nước ngoài chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khoảng cách về tiêu chuẩn chất lượng giữa các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước khá lớn. Doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ và vừa nên khả năng đáp ứng về yêu cầu chất lượng kém. Các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành công nghiệp phụ trợ hiện vẫn duy trì phong cách làm ăn tự cung tự cấp. Thực tế, Việt Nam có rất ít thông tin liên kết thầu phụ công nghiệp.

 

Vì vậy, nhiều công ty không tìm kiếm được thông tin về khả năng giao thầu của doanh nghiệp lớn, nhất là doanh nghiệp nước ngoài. Ngược lại, các doanh nghiệp nước ngoài cũng ít thông tin về doanh nghiệp Việt Nam. Thêm nữa, các doanh nghiệp nước ngoài thực sự ngần ngại khi phải ký kết hợp đồng thương mại với các nhà thầu phụ Việt Nam do môi trường pháp lý chưa thực sự thuận lợi. Chưa kể, họ luôn canh cánh nỗi lo sợ khi bị phá vỡ hợp đồng.

Các nhà cung ứng Việt Nam hiện hiểu biết còn hạn chế về khía cạnh pháp lý của hợp đồng. Bên cạnh đó, việc liên kết doanh nghiệp có ý nghĩa về mặt nâng cao khả năng cạnh tranh trong nội bộ ngành, sử dụng lợi thế cạnh tranh của khu vực, khai thác chuỗi giá trị để tạo nên sản phẩm mang tính cạnh tranh cao ở Việt Nam còn hạn chế. Trong khi ở nhiều quốc gia trên thế giới, việc liên kết này có thể hình thành thông qua việc phát triển các cụm công nghiệp.

Trên thực tế, ở Việt Nam các cụm công nghiệp được hình thành thiếu quy hoạch tổng thể, chủ yếu để giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất hơn là việc tạo nên chuỗi giá trị thông qua việc liên kết doanh nghiệp, kể cả sử dụng các dịch vụ tài chính và phi tài chính để khai thác lợi thế cạnh tranh.

Theo Vụ Công nghiệp Nặng, Bộ Công Thương, hiện nay, năng lực và công nghệ sản xuất của phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đến nay, các doanh nghiệp nội địa chỉ mới cung ứng được khoảng 10% nhu cầu nội địa về sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Các sản phẩm chủ yếu là linh kiện và vật liệu đơn giản, có giá trị thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm.

Các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chưa tiếp cận và đáp ứng được yêu cầu của các khách hàng đối với các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có hàm lượng công nghệ khá. Khoảng cách giữa yêu cầu của các Tập đoàn đa quốc gia và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất nội địa vẫn còn khá lớn. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia cung ứng được sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thì cũng mới chỉ quan tâm mở rộng quy mô, chứ chưa quan tâm nhiều đến đầu tư chiều sâu công nghệ và thiết bị.

 

Trên thực tế, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ muốn phát triển và tham gia được vào chuỗi sản xuất của các Tập đoàn đa quốc gia phải đáp ứng được 3 yếu tố, đó là chất lượng ổn định, giao hàng đúng hẹn và giá cả hợp lý. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có một số ít các doanh nghiệp trong nước đáp ứng được cả 3 yếu tố trên.

Chính vì thế, việc Chính phủ thông qua Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025, tạo tiền đề và định hướng phát triển cho ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam.

Qua đó, tạo công ăn việc làm, tăng tăng thu nhập cho người dân; Giúp giảm giá thành một số mặt hàng công nghiệp tiêu dùng như: ô tô, dệt may, gia giày, điện tử sẽ giảm xuống do các doanh nghiệp lắp ráp sử dụng hàng trong nước. Đồng thời, một số dịch vụ đi kèm như vận chuyển, logistic,… cũng sẽ giảm giá thành do việc giảm giá thành đầu tư. Bản thân các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ Việt cũng có cơ hội áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống quản lý chất lượng hiện đại, phù hợp với yêu cầu quốc tế; nâng cao chất lượng sản phẩm, độ tin cậy, và từng bước tham gia vào chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu.

Hàng năm, căn cứ vào Chương trình và đề xuất của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính cân đối kinh phí từ ngân sách để thực hiện các hoạt động phát triển công nghiệp hỗ trợ (đối với kinh phí Trung ương); Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch, dự toán kinh phí thực hiện để bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước của địa phương theo quy định của Luật Ngân sách và các quy định hiện hành.

Nên đọc
Hòa Lộc
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo