Hỗ trợ doanh nghiệp

Doanh nghiệp Nhà nước: "Đầu tàu" của nền kinh tế nhưng lại đang ở vị trí "khoá đuôi"

Đại biểu Vũ Tiến Lộc (Thái Bình) đồng thời là Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chỉ ra "một thực trạng đáng buồn": "Lẽ ra doanh nghiệp nhà nước phải đóng vai trò dẫn dắt trong nền kinh tế, nhưng các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động khu vực này đang ở vị trí khóa đuôi".

Như Dân trí đưa tin, báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giai đoạn 2011-2016 cho biết, tính đến cuối năm 2016, cả nước còn 583 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, 273 doanh nghiệp cổ phần.

Tổng tài sản tại doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% là hơn 3,05 triệu tỷ đồng (tăng 45,8%), trong đó vốn Nhà nước gần 1,4 triệu tỷ. Tuy nhiên, tổng số nợ phải trả của doanh nghiệp nhà nước cao, tăng 26% so với năm 2011 (từ gần 1,3 triệu tỷ đồng lên hơn 1,6 triệu tỷ đồng); hiệu suất sinh lời trên vốn kinh doanh của các DNNN đạt 2,1% năm 2015, thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (năm 2015 là 5,5%).

Đại biểu Vũ Tiến Lộc (Thái Bình) đồng thời là Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).

Hiệu quả chưa "xứng tầm"

Theo đại biểu Quốc hội Bế Minh Đức (Cao Bằng), nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá, với một lượng vốn lớn như vậy, các doanh nghiệp nhà nước đáng ra phải đóng góp nhiều hơn nữa cho phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng thực chất hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua chưa xứng tầm nếu so với các thành phần kinh tế khác trong khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, khu vực doanh nghiệp tư nhân.

Ông Đức cho rằng, có thể thấy hạn chế lớn nhất trong quản lý doanh nghiệp nhà nước phải kể đến chúng ta chậm ban hành đồng bộ các chính sách pháp luật, chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về quản lý sử dụng tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Một thời gian dài chúng ta quản lý và điều hành các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu bằng các văn bản dưới luật, giai đoạn này thừa các văn bản dưới luật nhưng lại thiếu văn bản luật với giá trị pháp lý cao hơn để điều chỉnh các vấn đề nêu trên.

"Tình trạng lãi giả, lỗ thật của nhiều doanh nghiệp nhà nước không phải là ít, có doanh nghiệp nhà nước ỷ lại vào cơ chế, chính sách không chịu vận động công nghệ, thiết bị chậm đổi mới, tham nhũng, lãng phí lớn, dẫn đến lâm vào cảnh nợ nần chồng chất nhưng lại không thể phá sản được vì thiếu cơ sở pháp lý gây thiệt hại không nhỏ cho vốn và tài sản của nhà nước", ông nói.

Một vấn đề lớn nữa được đại biểu tỉnh Cao Bằng chỉ ra là, chủ trương đổi mới mô hình tổ chức thực hiện chức năng đại diện đã được đề ra từ nhiều năm nhưng việc triển khai quá chậm, cơ chế bộ chủ quản có từ thời bao cấp trước đây vẫn tồn tại kéo dài và chính sự vận hành của cơ chế này xung đột với cơ chế thị trường.

 

"Việc các bộ, ngành vừa đảm bảo chức năng quản lý nhà nước, vừa thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn và tài sản nhà nước ở doanh nghiệp dẫn đến xung đột về lợi ích, khó đảm bảo tính khách quan trong ban hành chính sách và công tác chỉ đạo thực hiện giám sát và kiểm tra. Vụ việc Mobile phone mua lại 95% cổ phần Công ty Nghe nhìn toàn cầu AVG là một ví dụ điển hình. Nếu không được ngăn chặn kịp thời thì nguy cơ thiệt hại cho Nhà nước trên 7 nghìn tỷ đồng đã là nhãn tiền", ông nhấn mạnh.

Đang ở vị trí "khoá đuôi"

Đại biểu Vũ Tiến Lộc (Thái Bình) cũng chỉ ra "một thực trạng đáng buồn" là: "Lẽ ra doanh nghiệp nhà nước phải đóng vai trò dẫn dắt trong nền kinh tế, nhưng các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động khu vực này đang ở vị trí khóa đuôi".

Dẫn số liệu minh chứng, ông Lộc cho biết, hệ số ICO của khu vực doanh nghiệp nhà nước luôn cao hơn nhiều so với các thành phần kinh tế khác. Ví dụ, năm 2016 các doanh nghiệp nhà nước đã phải bỏ ra gần 10 đồng vốn đầu tư mới để thu được 1 đồng tăng trưởng, cao gấp 2 lần so với chỉ tiêu 5 đồng của khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài và cao gấp 1,5 lần so với mức trên 6 đồng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước.

Hơn nữa mức sinh lời trên vốn chủ sở hữu và tài sản của doanh nghiệp nhà nước không chỉ ở mức thấp mà còn có xu hướng giảm liên tục theo thời gian. Từ 16,4% và 6,5% năm 2012 xuống còn 10 đến 4,6% năm 2016. Ngân sách nhà nước cũng nhiều năm thất thu với thành phần kinh tế nhà nước. Tốc độ tăng thu chỉ đạt mức trung bình 3% trong giai đoạn 2011-2016.

 

"Điểm rất cần lưu ý là đó là xu hướng sụt giảm hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước nêu trên được diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà phục hồi và chất lượng tăng trưởng đang trên đà được cải thiện. Tức là nó diễn ra ngược với xu thế chung. Điều này cho thấy những yếu kém của khu vực doanh nghiệp nhà nước chủ yếu là vấn đề nội tại của khu vực này chứ không phải do những tác động từ môi trường bên ngoài", ông đánh giá.

Ông cũng chỉ ra rằng, những kết quả yếu kém ở khu vực doanh nghiệp nhà nước so với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và khu vực FDI tồn tại trong một thời gian dài và phổ biến không chỉ ở nước ta mà ở tất cả các nền kinh tế trên thế giới, kể cả những nền kinh tế có nền quản trị tiên tiến.

"Điều này cho thấy nguyên nhân gốc rễ nằm ở vấn đề sở hữu và động lực phát triển doanh nghiệp, bởi vậy nếu tỷ trọng sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao và áp đảo thì những nỗ lực cải cách khác hay tăng cường công tác thanh tra kiểm tra cũng không có nhiều ý nghĩa và không thể đem lại kết quả như mong muốn", ông nhấn mạnh.

Theo đó, đại biểu đề nghị Quốc hội nghiên cứu và giao Chính phủ chuẩn bị trình Quốc hội thông qua Luật Cổ phần hóa, đây là vấn đề rất quan trọng của nền kinh tế nước ta, rất xứng đáng để Quốc hội có bộ luật riêng về vấn đề này. Đồng thời, đề nghị Quốc hội giao Chính phủ xây dựng chủ trương, chính sách để thúc đẩy và hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước tham gia vào quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

Nên đọc
Theo Dân trí
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo