Thị trường

EVN xây dựng 3 phương án đảm bảo cung ứng điện năm 2016

(DNVN) - Năm tới, trước dự báo là một năm khó khăn đối với hoạt động sản xuất của ngành điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã xây dựng 3 phương án bảo đảm điện cho năm 2016 trình lên Bộ Công thương.

Theo tin từ baochinhphuvn, phương án 1: Phụ tải cơ sở, tần suất nước về 65%. Với phương án này, hệ thống điện quốc gia đáp ứng đủ nhu cầu phụ tải trong cả mùa khô và cả năm.

Trong 6 tháng mùa khô, các nguồn nhiệt điện than và tuabin khí miền Nam được huy động cao để đáp ứng nhu cầu phụ tải. Các nguồn thủy điện miền Nam được điều tiết để giữ mực nước cao đến hết tháng 4 để đảm bảo cung cấp điện hết mùa khô. Trong tháng 8 và tháng 9/2016 hệ thống cũng sẽ phải huy động các nguồn chạy dầu trong thời gian cắt khí.

EVN xây dựng 3 phương án đảm bảo cung ứng điện năm 2016 trình Bộ Công thương. Ảnh minh họa.

Do đã được bổ sung thêm nhiều tổ máy nhiệt điện than mới (Vũng Áng 1, Nghi Sơn 1, Mông Dương 2, Mông Dương 1…), nên miền Bắc có dự phòng công suất và sản lượng tại chỗ lớn, sản lượng này có thể đủ để dự phòng cho trường hợp sự cố của một tổ máy nhiệt điện than ở miền Bắc.

Cũng như năm 2015, việc đảm bảo cấp điện cho miền Nam năm 2016 phụ thuộc chủ yếu vào việc vận hành ổn định, tin cậy của các tổ máy nhiệt điện than Vĩnh Tân 2 và Duyên Hải 1. Dự kiến, sản lượng huy động từ 2 nhà máy này trong 6 tháng mùa khô khoảng 6,2 tỉ kWh và cả năm là 12,14 tỉ kWh, chiếm 18% tổng sản lượng nguồn điện miền Nam.

Trong trường hợp không thể đảm bảo sản lượng trên, có thể hệ thống sẽ phải huy động thêm các nguồn nhiệt điện dầu để bù lại phần sản lượng thiếu hụt.

Về truyền tải, xu hướng truyền tải vẫn là từ Bắc và Trung vào miền Nam với công suất và sản lượng truyền tải cao trong cả năm. Giao diện Bắc-Trung sản lượng truyền tải cả năm là 13,27 tỉ kWh, tháng cao nhất là 1,5 tỉ kWh, tháng thấp nhất 500 triệu kWh. Giao diện Trung-Nam sản lượng truyền tải cả năm là 19,98 tỉ kWh, tháng cao nhất là 2,43 tỉ kWh, tháng thấp nhất 508 triệu kWh.

Phương án 2: Phụ tải tăng trưởng cao, tần suất nước về 65%. So với phương án 1, phương án này sản lượng phụ tải cao hơn 0,78 tỉ kWh trong mùa khô và cao hơn 1,62 tỉ kWh cả năm. Với phương án này, dự kiến mùa khô cũng không huy động các nguồn chạy dầu. Cung cấp điện cơ bản được đảm bảo trong cả năm.

 

Phương án 3: Phụ tải tăng trưởng cao, tần suất nước về 90%. So với phương án cơ sở, phương án này có phụ tải cao hơn 0,78 tỉ kWh trong mùa khô và cao hơn 1,62 tỉ kWh cả năm, đồng thời sản lượng thủy điện theo nước về trong phương án này thấp hơn so với phương án cơ sở là 18 tỉ kWh.

Theo phương án này, để đảm bảo cung cấp đủ điện, sẽ cần chạy các nguồn nhiệt điện cao trong cả mùa khô và mùa lũ, kể cả các nguồn nhiệt điện dầu và hạ mực nước các hồ thủy điện vào cuối năm 2016, sản lượng hụt so với mực nước dâng bình thường khoảng 900 triệu kWh. Sản lượng chạy dầu mùa khô 1,3 tỉ kWh và cả năm là 5,1 tỉ kWh.

Theo đánh giá của EVN, với tất cả các phương án tính toán, việc cung cấp điện năm 2016 sẽ được đảm bảo. Tuy nhiên, việc cung cấp điện cho miền Nam rất khó khăn do các nguồn điện thêm vào miền Nam vẫn ít và một số hồ thủy điện khu vực Tây Nguyên và miền Nam có thể không tích được lên mực nước dâng bình thường. Truyền tải trên các đường dây 500 kV Bắc-Nam luôn ở mức cao trong cả năm. Việc liên tục phải truyền tải vào Nam với công suất và sản lượng cao sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn trong vận hành.

Để thực hiện thành công các phương án trên, EVN đề nghị Bộ Công Thương chỉ đạo PVN tiếp tục đảm bảo đủ khí khu vực Đông Nam Bộ cho phát điện, rút ngắn tối đa thời gian ngừng cấp khí bảo dưỡng các hệ thống khí Nam Côn Sơn và PM3 CAA, đặc biệt không thực hiện các công tác gây giảm khả năng cấp khí trong mùa khô, đồng thời vận hành ổn định các tổ máy của nhà máy điện Cà Mau 1 và 2, Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2, Vũng Áng 1.

Chỉ đạo PVN, PVGas cùng các đối tác trong Công ty Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn khẩn trương thực hiện ngay giải pháp đầu tư bổ sung đuốc xả dự phòng tại Nhà máy xử lý khí Nam Côn Sơn để giảm thiểu thời gian ngừng cấp khí ngay từ kỳ bảo dưỡng sửa chữa năm 2016, nhằm tăng cường an ninh, an toàn cung cấp điện và giảm thiểu lượng dầu phải sử dụng để phát điện trong thời gian ngừng cấp khí để bảo dưỡng sửa chữa năm 2016.

 

Đồng thời chỉ đạo TKV tiếp tục đảm bảo cung cấp đủ than cho các nhà máy nhiệt điện than, đặc biệt là cung cấp đủ than cho nhà máy nhiệt điện than Vĩnh Tân 2, Duyên Hải 1 ở miền Nam; vận hành ổn định các nhà máy điện Cẩm Phả, Sơn Động, Na Dương, Cao Ngạn, Mạo Khê của TKV.

Trong một diễn biến khác, ngày 9/11, EVN vừa công bố kết quả hoạt động đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh tháng 10 năm 2015. Theo đó, sản lượng toàn hệ thống tháng 10 đạt 14,15 tỷ kWh. Sản lượng cao nhất đạt 507,6 triệu kWh (ngày 01/10) và công suất cao nhất 24.658MW (ngày 26/10). Luỹ kế 10 tháng năm 2015 sản lượng điện toàn hệ thống đạt 136,25 tỷ kWh, tăng 12,95% so với cùng kỳ năm 2014.

Sản lượng điện sản xuất và mua của EVN trong tháng 10 đạt 13,78 tỷ kWh. Lũy kế 10 tháng ước đạt 132,64 tỷ kWh, tăng 11,69% so với cùng kỳ, trong đó thủy điện chiếm 37,58%, nhiệt điện than chiếm 31,69%, tua-bin khí chiếm 29,22%, nhiệt điện dầu chiếm 0,31%, nhập khẩu chiếm 1,1%.... Riêng điện sản xuất trong 10 tháng ước đạt 56,43 tỷ kWh, tăng 7,96% so với cùng kỳ.

Tháng 10/2015, điện thương phẩm ước đạt 12,27 tỷ kWh. Lũy kế 10 tháng năm 2015, điện thương phẩm ước đạt 119,05 tỷ kWh, tăng 11,74% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, điện thương phẩm nội địa đạt 118,05 tỷ kWh, tăng 11,91%, điện cấp cho công nghiệp - xây dựng tăng 11,08%, điện cấp cho thương mại tăng 23,01%, điện cấp cho nông nghiệp tăng 24,81%, điện cấp cho quản lý và tiêu dùng tăng 10,83%...

Về tiết kiệm điện, trong 10 tháng năm 2015, cả nước ước thực hiện tiết kiệm được 2,609 tỷ kWh, bằng 2,2% sản lượng điện thương phẩm.
Về tình hình thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, EVN cho biết, trong tháng 10/2015 đã hạ thành công rotor tổ máy 1 Thủy điện Lai Châu, công trường đang thi công bám sát tiến độ phát điện tổ máy 1 vào tháng 12/2015. Trong đó có các dự án trọng điểm như: Nhiệt điện Duyên Hải 3, Duyên Hải 3 MR, Vĩnh Tân 4, Thái Bình và Thủy điện Huội Quảng, Sông Bung 2 cơ bản đáp ứng tiến độ.

 

Các dự án lưới điện, trong tháng 10/2015 hoàn thành đóng điện 4 công trình 500 - 220kV, trong đó có 2 công trình quan trọng là đường dây 500kV Sơn La - Lai Châu và đường dây 220kV Thường Tín - Kim Động; khởi công xây dựng được 7 công trình 220kV. Về thực hiện giá trị đầu tư xây dựng, trong kỳ, ước giá trị khối lượng thực hiện đạt 98.787 tỷ đồng, cao hơn so với cùng kỳ năm 2014; giá trị giải ngân đạt 82.198 tỷ đồng.

VĂN HUY
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo