Pháp luật

Sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng

Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy vậy, theo đánh giá của chính ngành thuế, đã đến lúc Luật thuế này phải có sự sửa đổi, bổ sung.

Theo đánh giá của Tổng cục Thuế, sau 3 năm đi vào cuộc sống, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã góp phần hỗ trợ doanh nghiệp chấp hành chính sách pháp luật thuế, tạo nguồn thu lớn và ổn định của ngân sách Nhà nước; đáp ứng nguồn tài chính đầu tư vào sự nghiệp pháp triển kinh tế - xã hội của đất nước.

 

Theo đánh giá của Tổng cục Thuế, trong 3 năm qua chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với các dự án đầu tư đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển công nghệ, đầu tư đổi mới tài sản cố định, góp phần thúc đẩy vốn đầu tư xã hội tăng trưởng.

 

Thông qua áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu đã tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá hàng hoá, dịch vụ, xuất khẩu tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khuyến khích xuất khẩu tăng mạnh qua các năm.

 

Đơn cử như số thuế giá trị gia tăng hoàn cho các dự án tăng các năm: năm 2009 là 19.746 tỉ đồng, trong đó hoàn cho xuất khẩu là 13.326 tỉ đồng, hoàn cho đầu tư là 6.420 tỉ đồng; năm 2010 là 33.426 tỉ đồng; và năm 2011 là 48.604 tỉ đồng; ước năm 2012 sẽ là 34.300 tỉ đồng.

 

Trong 3 năm (2009 - 2011), mặc dù nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới nhưng số thu từ thuế giá trị gia tăng vẫn liên tục tăng.

 

Chẳng hạn số thu thuế giá trị gia tăng từ sản xuất kinh doanh nội địa năm 2009 chiếm 32,9% trong tổng thu nội địa trừ dầu và đất (tương đương 79.915 tỉ đồng); năm 2010 là 98.690 tỉ đồng; năm 2011 lên tới 118.272 tỉ đồng; dự kiến năm 2012 đạt khoảng 156.958 tỉ đồng.

 

Tổng cục Thuế cho rằng, về bản chất thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng và vẫn tiếp tục phát huy vai trò là loại thuế có số thu đóng góp vào ngân sách Nhà nước nhiều nhất đặc biệt trong giai đoạn suy thoái kinh tế, thuế giá trị gia tăng càng phát huy vai trò là loại thuế gián thu vì đây là loại thuế ít biến động và ít thay đổi hơn so với thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế thu nhập cá nhân.

 

Ngoài ra, thuế giá trị gia tăng được nộp vào ngân sách kịp thời (ngay trong kỳ phát sinh giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ) nên tạo nguồn thu đều đặn cho ngân sách Nhà nước trong bối cảnh nhiều quốc gia phải đối mặt với tình trạng giảm lượng tiền mặt so với số thu về thuế giảm và chi ngân sách tăng.

 

 

Nên bỏ phương pháp trực tiếp để tính thuế giá trị gia tăng.

Luật Thuế giá trị gia tăng đã khuyến khích phát triển các giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt giữa các doanh nghiệp.

 

Thông qua qui định kể từ ngày 1/1/2009 để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào thì một trong những điều kiện bắt buộc doanh nghiệp phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào từng lần có giá trị trên 20 triệu đồng.

 

Quy định này hạn chế việc các doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế thông qua hình thức không kê khai nộp thuế đối với giao dịch tiền mặt, lập khống hoá đơn chiếm đoạt tiền thuế.

 

Tuy nhiên, theo Tổng cục Thuế trong thời gian tới cần giảm bớt số lượng hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Theo đó, danh mục 25 hàng hoá cần được rà soát lại và có thể cắt giảm một số hàng hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế.

 

Chẳng hạn như chuyển nhóm "Nhà thuộc sở hữu nhà nước bán cho người đang thuê", "Chuyển quyền sử dụng đất" sang diện chịu thuế giá trị gia tăng; đồng thời bổ sung qui định "Chuyển nhượng cầu thủ", "Hàng hoá, dịch vụ của cá nhân kinh doanh có mức thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với tổ chức, doanh nghiệp trong nước" thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng.

 

Tổng cục Thuế kiến nghị nên bỏ phương pháp trực tiếp để tính thuế giá trị gia tăng  và kết hợp xây dựng ngưỡng doanh thu tính thuế giá trị gia tăng để áp dụng hình thức kê khai thuế giá trị gia tăng phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

 

Đồng thời bổ sung một số qui định về hoàn thuế như không hoàn thuế đối với cơ sở kinh doanh có số lỗ lớn hơn vốn chủ sở hữu và không hoàn thuế giá trị gia tăng đối với cơ sở kinh doanh thương mại kê khai âm liên tục do có nhiều hàng tồn kho hoặc đưa hai đối tượng này vào đối tượng rủi ro thuộc diện kiểm tra trước hoàn sau...

 

 

Theo DĐDN

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo