Khám phá

Mô hình đại học nghiên cứu: Đợi đến bao giờ?

Việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học tại các trường đại học đang bị lấn át bởi hoạt động giảng dạy, kinh phí cho nghiên cứu khoa học cũng thua xa so với các viện nghiên cứu, cùng với thiết bị thí nghiệm lạc hậu... Đây là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến số sáng chế, tiến bộ kỹ thuật xuất phát từ trường đại học ở nước ta hiện khá thấp.

Nghiên cứu chỉ là "làm thêm"

 


Ông Tạ Đức Thịnh, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và môi trường (Bộ Giáo dục - Đào tạo) cho biết, đến hết năm 2011, cả nước có 188 trường đại học, 226 trường cao đẳng với gần 74.000 giảng viên.

 

Cùng với sự "nở rộ" các trường đại học, cao đẳng thì số sinh viên đã tăng khoảng 13 lần so với 15 năm về trước trong khi số giảng viên chỉ tăng khoảng 3 lần. Năm 2011, kinh phí sự nghiệp Khoa học công nghệ của Bộ này là 225 tỷ đồng trên tổng số gần 25.000 giảng viên, cán bộ nghiên cứu. Như vậy, tính bình quân thì chỉ đạt 9 triệu đồng/người, một mức đầu tư quá thấp.
 


Theo Giáo sư Vũ Minh Giang, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, việc coi nhẹ nghiên cứu khoa học  trong trường đại học là một sai lầm và đi ngược xu thế phát triển đại học trên thế giới. Nhiều giảng viên đại học ở ta coi nghiên cứu khoa học  chỉ là việc "làm thêm", thời gian chủ yếu là dành cho giảng dạy...
 
 
 
Thực tế cho thấy đội ngũ nghiên cứu sinh dưới sự nghiên cứu của các giáo sư, phó giáo sư chính là lực lượng tạo ra nhiều kết quả nghiên cứu khoa học  và đây là tiền đề hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, thậm chí là cả một trường phái khoa học vốn đang rất cần nhưng quá thiếu ở Việt Nam.
 

Có thực tế là hiện nay nước ta chưa có tiêu chí cụ thể trong việc xác định thế nào là trường đại học theo định hướng nghiên cứu nên không một đơn vị nào đủ năng lực cạnh tranh ở cấp độ khu vực và thế giới về năng lực nghiên cứu.
 
 
 
Những năm gần đây, việc khuyến khích trao thưởng và hỗ trợ cho các giảng viên có các nghiên cứu được đăng trên các tạp chí có phê bình quốc tế hay việc tập trung nghiên cứu sản phẩm mới để bán cho doanh nghiệp đã đem lại kết quả nhất định nhưng khi nguồn đầu tư từ Nhà nước cạn kiệt thì số bài báo khoa học cũng giảm mạnh và cán bộ giảng dạy dường như không còn hứng thú với công việc nghiên cứu khoa học .
 
 
 
Đặc biệt, hầu hết các nghiên cứu ở Việt Nam về bản chất đều là nghiên cứu ứng dụng vì các trường đại học không có đủ nguồn lực để hỗ trợ cho nghiên cứu cơ bản. "Việc thiếu một nền văn hóa nghiên cứu ở các trường đại học là vấn đề lớn đáng quan tâm trong giáo dục đại học ở nước ta hiện nay khi không có sự gắn kết giữa giảng dạy và nghiên cứu trong toàn hệ thống." - ông Thịnh khẳng định.
 

Không nên đầu tư dàn trải
 

Ở các nước phát triển, đại học nghiên cứu là cốt lõi của sáng tạo và chuyển giao công nghệ cao. Các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc cũng đang nỗ lực xây dựng đại học thành trung tâm nghiên cứu khoa học  hàng đầu hỗ trợ cho nền kinh tế.
 
 
 
Trung Quốc, Nga là hai quốc gia đã và đang có hệ thống giáo dục đại học khá tương đồng với nước ta nhưng ngay từ những năm 1990, Chính phủ các nước này đã có sự quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng các trường đại học định hướng nghiên cứu. Trong bảng xếp hạng đại học thế giới 2011, hai trường đại học nghiên cứu là Bắc Kinh và Thanh Hoa (Trung Quốc) xếp hạng 46, 47. Nga cũng có Đại học Quốc gia Lomonosov xếp hạng thứ 112.
 


Theo kinh nghiệm quốc tế, để xây dựng một trường đại học nghiên cứu tầm quốc tế cần khoảng 400-500 triệu USD và phải duy trì nguồn tài chính ổn định để cung cấp cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong nhiều năm. Đây là một thách thức lớn đối với nước ta vì bấy lâu đã "quen" đầu tư dàn trải, thiếu trọng điểm trong khi nguồn tài chính hạn chế.
 

Ông Tạ Đức Thịnh cho rằng, để xây dựng được đại học nghiên cứu theo đúng nghĩa trước mắt Nhà nước chỉ nên đầu tư cho 1-2 trường cũng như một số lượng hạn chế các ngành khoa học mạnh mà có thể tận dụng được lợi thế địa phương như với Việt Nam là nông nghiệp. Vì thế, việc cần làm ngay là sớm đề xuất bộ tiêu chí để đánh giá và xác định thế nào là trường đại học nghiên cứu cũng như quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức này.
 

Ở một góc độ khác, việc các trường đại học và viện nghiên cứu ở nước ta trong cảnh "gần nhà, xa ngõ" đã bộc lộ bất cập. Điểm chung của quá trình này là coi các hoạt động nghiên cứu khoa học  và chuyển giao công nghệ cần được tích hợp hữu cơ với nhiệm vụ đào tạo. Do đó, việc xem xét hợp nhất một số trường ĐH và viện nghiên cứu rất đáng để suy nghĩ.
 


Không có trường đại học nghiên cứu ắt sẽ khó nói đến một nền khoa học mạnh, đủ sức là trụ đỡ cho các ngành sản xuất, quản lý là một thực tế đã được kiểm chứng ở các nước phát triển. Riêng với Mỹ, sở dĩ những công ty công nghệ cao về công nghệ sinh học hay khoa học máy tính của họ luôn dẫn đầu thế giới đều do hưởng lợi từ những đại học nghiên cứu hàng đầu như Harvard, MIT, California hay Stanford.
 
 
 
 
Theo HNM
 
 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo