Giá nông sản ngày 7/10/2024: Cà phê tiếp tục tăng mạnh, hồ tiêu ổn định
Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn tiếp nối đà tăng trưởng tích cực / Sức chống chịu của doanh nghiệp Việt ra sao sau bão số 3?
Giá cà phê tiếp tục tăng mạnh
Kết thúc phiên giao dịch ngày 7/10/2024, giá cà phê Robusta trên sàn London ghi nhận ở mức 4.533 - 5.067 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 5.067 USD/tấn, tăng 146 USD/tấn; kỳ hạn tháng 1/2025 là 4.859 USD/tấn, tăng 139 USD/tấn; kỳ hạn tháng 3/2025 đạt 4.674 USD/tấn, tăng 126 USD/tấn; và kỳ hạn tháng 5/2025 ở mức 4.533 USD/tấn, tăng 110 USD/tấn.
Ảnh minh họa.
Trên sàn New York, giá cà phê Arabica sáng ngày 7/10/2024 có sắc xanh chiếm ưu thế, dao động từ 4,95 - 5,30 cent/lb. Kỳ hạn giao hàng tháng 12/2024 đạt 257,35 cent/lb, tăng 2,10%; kỳ hạn tháng 3/2025 là 255,65 cent/lb, tăng 2,06%; kỳ hạn tháng 5/2025 ở mức 253,55 cent/lb, tăng 2,01%; và kỳ hạn tháng 7/2025 đạt 251,00 cent/lb, tăng 2,01%.
Giá cà phê Arabica Brazil ghi nhận xu hướng tăng giảm trái chiều. Kỳ hạn giao hàng tháng 12/2024 là 308,05 USD/tấn, giảm 0,95%; kỳ hạn tháng 3/2025 đạt 310,30 USD/tấn, tăng 1,72%; kỳ hạn tháng 5/2025 ở mức 311,20 USD/tấn, tăng 2,17%; và kỳ hạn tháng 7/2025 đạt 307,75 USD/tấn, tăng 2,17%.
Giá cà phê trong nước cập nhật lúc 5 giờ sáng ngày 7/10/2024 tiếp tục tăng thêm 1.600 đồng/kg, dao động từ 115.500 - 116.200 đồng/kg. Tại Tây Nguyên, giá mua trung bình là 116.200 đồng/kg, trong đó Đắk Lắk và Đắk Nông ghi nhận mức giá cao nhất là 116.200 đồng/kg.
Tại Gia Lai, giá thu mua cà phê ở Chư Prông đạt 116.100 đồng/kg, tăng 1.600 đồng/kg; Pleiku và La Grai ở mức 116.000 đồng/kg. Tại Kon Tum, giá đạt 116.100 đồng/kg, tăng 1.600 đồng/kg; Đắk Nông ghi nhận giá thu mua ở mức 116.200 đồng/kg, tăng 1.700 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô tại Lâm Đồng, bao gồm Bảo Lộc, Di Linh, và Lâm Hà, được thu mua với giá 115.500 đồng/kg, tăng 1.700 đồng/kg, giữ nguyên so với ngày hôm qua.
Giá cà phê tại Đắk Lắk hôm nay, ở huyện Cư M'gar, đạt khoảng 116.200 đồng/kg, tăng 1.500 đồng/kg, trong khi huyện Ea H'leo và thị xã Buôn Hồ thu mua ở mức 116.100 đồng/kg.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, giá cà phê có khả năng duy trì ở mức cao trong tháng tới do nguồn cung khan hiếm và nhu cầu tăng mạnh. Việt Nam có thể sẽ chứng kiến sản lượng cà phê niên vụ 2024-2025 giảm xuống mức thấp nhất trong 13 năm qua.
Sự trở lại của thị trường cà phê sau kỳ nghỉ Hè ở Bắc bán cầu dự kiến sẽ kích hoạt giao dịch sôi động, đặc biệt trước mùa rang cà phê mùa Đông tại châu Âu và Mỹ. Mặc dù Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng sẽ tăng, nhưng nhiều chuyên gia trong ngành dự báo sản lượng giảm khoảng 15% do thời tiết không thuận lợi và diện tích trồng cà phê giảm.
Hạn hán nghiêm trọng trong mùa khô vừa qua đã ảnh hưởng tiêu cực đến kích thước hạt cà phê, đặc biệt trong giai đoạn phát triển quả. Nguồn cung cà phê thiếu hụt đã bắt đầu từ tháng 5/2024, do không còn tồn kho từ niên vụ 2023-2024.
Giá hồ tiêu ổn định
Ngày 7/10/2024, giá tiêu tại Đông Nam Bộ và Tây Nguyên dao động quanh mức 146.500 - 147.500 đồng/kg. Trung bình tại các vùng trồng tiêu trọng điểm, giá tăng 500 đồng/kg, trong khi một số địa phương giữ giá ổn định so với ngày hôm qua.
Giá tiêu tại Đắk Lắk ghi nhận ở mức 147.500 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg so với ngày hôm qua. Giá tiêu tại Chư Sê (Gia Lai) là 146.500 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg; trong khi Đắk Nông vẫn ở mức 147.500 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg.
Tại Đông Nam Bộ, giá tiêu duy trì ổn định. Cụ thể, Bà Rịa – Vũng Tàu đạt mức 147.000 đồng/kg, Bình Phước giữ nguyên ở mức 147.000 đồng/kg so với ngày trước.
Như vậy, giá tiêu trong ngày 7/10/2024 dao động từ 146.500 - 147.500 đồng/kg. So với tuần trước, giá tiêu giảm từ 500 đến 2.000 đồng/kg, và giữ nguyên so với ngày hôm qua.
Trên thị trường thế giới, theo Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), giá tiêu đen Lampung (Indonesia) đạt 6.782 USD/tấn, tiêu trắng Muntok ở mức 9.068 USD/tấn.
Giá tiêu đen ASTA 570 của Brazil được ghi nhận ở mức 6.850 USD/tấn, trong khi giá tiêu đen ASTA của Malaysia duy trì ở mức 8.900 USD/tấn; tiêu trắng ASTA của Malaysia đạt 11.400 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam giữ ổn định ở mức 6.800 USD/tấn (loại 500g/l), tiêu đen loại 550g/l đạt 7.100 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 10.150 USD/tấn.
Trong 9 tháng đầu năm 2024, Việt Nam ghi nhận kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 46,28 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khẩu các mặt hàng này đạt 32,42 tỷ USD, tăng 7,5%.
Xuất siêu nông, lâm, thủy sản đạt 13,86 tỷ USD, tăng 71,2% so với cùng kỳ. Đặc biệt, cà phê và hạt tiêu có mức tăng trưởng mạnh. Cà phê đạt doanh thu 4,37 tỷ USD, tăng 39,6%, dù lượng xuất khẩu giảm 10,5%. Hạt tiêu đạt 1 tỷ USD, tăng 46,9%.
Giá xuất khẩu trung bình của cà phê tăng 56%, đạt 3.897 USD/tấn, trong khi hạt tiêu tăng 49,2%, đạt 4.941 USD/tấn. Các chuyên gia dự báo thị trường hạt tiêu Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển, giữ giá ổn định. Nguồn cung tiêu trong nước hiện gần như đã cạn, chỉ còn lại trong kho của các doanh nghiệp.
End of content
Không có tin nào tiếp theo