Góc nhìn

Chỉ tàu sắt thôi thì chưa đủ!

Chuyển đổi tàu gỗ sang tàu sắt là việc cần làm nhưng chỉ đóng tàu sắt thì chưa đảm bảo ngư dân sẽ thành công trong khai thác.

Người dân chuẩn bị ướp sản phẩm trong một chuyến đánh bắt tại vùng biển Trường Sa - Ảnh: Tr.Mạnh

Đây là khẳng định của TS Nguyễn Thị Hồng Minh, nguyên thứ trưởng Bộ Thủy sản khi nói về chủ trương hỗ trợ ngư dân đóng tàu sắt. Bà Hồng Minh cho biết:

- Trình độ khai thác hải sản của Việt Nam xét ở mọi góc độ từ năng lực đánh bắt, hậu cần nghề cá, năng lực quản lý nghề cá... không chỉ lạc hậu so với các nước phát triển mà còn lạc hậu so với những nước trong khu vực. Trong khi các nước đưa tàu cá ra khai thác các vùng nước quốc tế ở đại dương xa và tiến đến những tầng nước rất sâu thì tàu cá của ta hầu như chỉ hoạt động ở quanh vùng biển Đông, ngư cụ sử dụng phổ biến là để khai thác cá tầng mặt hoặc cào vét sạch tầng đáy. Hệ thống cầu cảng, bến đỗ, âu thuyền, hệ thống bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ, cung ứng nhiên liệu, nước đá... còn kém hơn.
 
* Như vậy chủ trương đóng mới tàu sắt là cần thiết để hiện đại hóa nghề cá của Việt Nam?
 
TS Nguyễn Thị Hồng Minh- Việc chuyển đổi sang tàu sắt là cần thiết, nhưng nó sẽ thiết thực hơn nếu xuất phát từ chính nhu cầu bức thiết của ngư dân chứ không phải xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước khi thấy tàu gỗ thì yếu, dễ bị đâm thủng, dễ chìm... khi có va chạm với tàu Trung Quốc. Nhà nước có hướng cho dân là rất tốt nhưng phải kết hợp với nhu cầu thật sự của ngư dân thì mới đem lại hiệu quả.
 
Không phải cho tiền là đủ mà phải nghĩ cách thế nào để người dân làm hiệu quả, Nhà nước thu hồi được vốn. Nếu làm không hiệu quả thì tàu sắt sẽ thành một đống sắt vụn. Tàu sắt có công suất lớn chuyên khai thác xa bờ, nhưng đâu phải ai cũng có khả năng đánh bắt xa bờ, đâu phải ai cũng có thể quản lý tàu lớn. Cho nên cần tránh chủ quan duy ý chí, tránh lặp lại bài học đau đớn của chương trình đánh bắt xa bờ trước đây.
 
* Ngoài đóng tàu lớn, cần làm những gì để ngư dân có thể giàu lên từ biển?
 
- Tàu sắt chỉ là một trong những yếu tố chính làm nên thành công của ngành khai thác hải sản của một quốc gia. Muốn ngư dân giàu lên từ biển, Việt Nam cần tổ chức đào tạo nhân lực nghề cá, sắp xếp lại hệ thống cảng cá, chợ cá và tăng quyền cho các hội đoàn, nghiệp đoàn nghề cá ở các địa phương. Trong khi những nước có nghề khai thác biển phát triển đều có những trung tâm đào tạo nghề đi biển, ngư dân Việt Nam đi biển chủ yếu học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước. Tàu nhỏ thì không sao nhưng chuyển sang tàu lớn để quản lý là điều không hề dễ dàng. Khoa đánh cá lại được đào tạo tại một vài trường đại học chứ không phải trường nghề, nếu có thì cũng đào tạo chay. Nhà nước cũng cần xây dựng cảng và cơ sở hạ tầng nghề cá rồi giao cho các tổ chức cộng đồng (hội nghề cá) quản lý.
 
Việc hỗ trợ lãi suất để cho dân vay đóng tàu là cần thiết nhưng việc thu hồi vốn cho vay đóng tàu là việc khó, nên cần nghiên cứu để có cơ chế riêng phù hợp để bảo đảm thu hồi vốn. Để loại bỏ dần tác động tiêu cực của các nậu vựa, phải xây dựng chợ cá gắn liền với cảng cá, việc mua bán của ngư dân qua cảng đều do hội nghề cá quản lý, tỉ lệ chiết khấu cho hội do Nhà nước quy định. Cách làm này đã thực hiện hiệu quả ở một số nước và vùng lãnh thổ ngay trong khu vực.
 
* Còn có cách nào để nâng cao năng lực của ngành khai thác hải sản của Việt Nam không, thưa bà?
 
- Tôi đã từng nhiều lần có ý kiến rằng cũng giống như các ngành kinh tế khác, nghề cá mình lạc hậu thì có thể hiện đại hóa thông qua tiếp thu công nghệ của nước ngoài, đó là mở cửa biển có chọn lọc cho các đơn vị khai thác hải sản của các nước tiên tiến tham gia. Tất nhiên, biển là vấn đề nhạy cảm, nhưng chúng ta vẫn có thể quy hoạch và chọn lọc các nhà đầu tư. Họ sẽ đem công nghệ đánh bắt và khai thác thủy sản tiên tiến vào nước ta và từ đó ngư dân trong nước cũng dần tiếp cận được với những công nghệ mới.
 

 * GS.TS VŨ TRỌNG KHẢI (chuyên gia nông nghiệp):

 
Ngư dân phải là người quyết định đóng tàu sắt
 
Tôi cho rằng nên cho dân vay tiền với lãi suất ưu đãi thay vì đóng tàu cho dân thuê. Nếu để dân thuê thì Nhà nước lại đổ tiền cho một doanh nghiệp nhà nước đóng tàu với chất lượng rất khó kiểm soát. Nhà nước chỉ nên hỗ trợ bằng cách giới thiệu các mẫu tàu với công nghệ đi kèm, còn quyết định mua loại nào là thuộc về ngư dân. Tiền đầu tư phải là của ngư dân dù là tiền đi vay và họ phải có quyền lựa chọn. Phải có một doanh nghiệp chuyên thiết kế các loại tàu cá hiện đại bởi vì mỗi loại hình khai thác cần loại tàu có thiết kế, công năng khác nhau. Cũng xin nói thêm là ngoài tàu sắt, thiết bị trên tàu cũng rất quan trọng trong việc quyết định thành công và hiệu quả của chuyến đi biển.
 
 
* Ông VÕ THIÊN LĂNG (phó chủ tịch Hội Nghề cá VN):
 
Muốn yên tâm bám biển phải đảm bảo hậu cần nghề cá
 
Tôi từng đi khảo sát các chuyến ra khơi của ngư dân Nhật, Đài Loan, Philippines... thấy họ đánh bắt nhàn nhã lắm, tàu lớn nhưng chỉ có 5-7 lao động, trong khi ở mình phải tăng gấp đôi. Tỉ lệ sản phẩm hư hại rất thấp do công nghệ bảo quản cực kỳ hiện đại. Ngược lại, chưa nói đến phương tiện và công nghệ đánh bắt của Việt Nam còn lạc hậu, sản lượng đánh bắt và chất lượng sản phẩm Việt Nam cũng thua xa các nước, do công nghệ bảo quản sau thu hoạch không tốt.
 
Do đó, tôi cho rằng đây là thời điểm để ngành đánh bắt thủy sản hình thành nên những đội tàu có quy mô công suất lớn, được cải tiến trang thiết bị công nghệ tiên tiến dần thay thế con tàu cũ kỹ. Tuy nhiên, để đồng vốn vay của ngư dân phát huy hiệu quả, Nhà nước cũng phải định hướng các mô hình đánh bắt cùng công nghệ đi kèm chứ lâu nay ngư dân toàn đi “học lỏm” ngư dân nước bạn. Đơn cử như nghề câu cá ngừ đại dương, sản lượng đánh bắt của ta liên tục tăng mạnh trong thời gian qua nhưng giá cứ rớt thê thảm. Nguyên nhân là chất lượng sản phẩm thấp, không xuất khẩu được nên hiệu quả không cao.
 
Giá cả thị trường là thuận mua vừa bán, Nhà nước cũng không thể can thiệp được. Tuy nhiên, theo tôi, giá cao hay thấp còn phụ thuộc vào chất lượng của sản phẩm đánh bắt được. Trong đó, mấu chốt là bài toán bảo quản sản phẩm. Một chuyến lưới rê cập cảng với hơn 30 tấn cá nhưng được bảo quản bằng cách ướp đá cả tháng trời trên biển thì sản phẩm không thể đảm bảo chất lượng, làm sao đòi giá cao. Sản lượng đánh bắt cao nhưng hư hại nhiều là sự lãng phí tài nguyên.
 
Thế nên, mô hình liên kết sản xuất hiện nay phải được tính toán lại. Các đội tàu cá cần có sự phân công vai trò cụ thể như ai lo thăm dò, đánh bắt, ai lo dịch vụ hậu cần giúp bảo quản, thu mua sản phẩm ngay trên biển. Đó là câu chuyện của mô hình tàu mẹ - tàu con, tàu dịch vụ hậu cần hay gọi nôm na là tàu con thoi kết nối. Ưu thế của tàu hậu cần nghề cá là rất rõ ràng như vừa đảm bảo chất lượng cá, giảm chi phí cũng như rủi ro vận chuyển, ngư dân có thể khai thác tối đa luồng cá thay vì chạy vào bờ đổ cá khi đầy khoang... Khi chất lượng sản phẩm tốt, giá bán cao và chuyến biển hiệu quả, ngư dân sẽ yên tâm đánh bắt, phát huy tốt công tác bám biển bảo vệ chủ quyền.
Theo Tuổi Trẻ
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo