Phân tích

Nợ công áp sáp ngưỡng "nguy hiểm", giải pháp nào cho Việt Nam?

(DNVN) - Báo cáo mới đây của Trung tâm nghiên cứu BIDV cho biết, đến cuối năm 2015, nợ công/GDP của Việt Nam ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội.

Nợ công cao gần gấp đôi sau 5 năm

Trung tâm nghiên cứu BIDV mới đây đã công bố báo cáo “Đánh giá thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và đề xuất giải pháp cho giai đoạn 2016-2020”.

Báo cáo cho biết, trong giai đoạn 2011- 2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7%/năm. Đáng lưu ý, theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể đã cao hơn so với mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế uy tín có sự khác biệt. 

Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên nguyên tắc trách nhiệm thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; còn nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở chủ sở hữu thực sự hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay phải có trách nhiệm thanh toán. 

Theo đó, nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các doanh nghiệp nhà nước (DNNN),  tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội (ASXH) và một số địa phương. Căn cứ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều chuyên gia đưa ra ước tính và cho rằng tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%.

"Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30-40%. Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra là 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro", báo cáo đánh giá.

Nợ công áp sát ngưỡng kiểm soát của Quốc hội, cao gần gấp đôi sau 5 năm.

Báo cáo cũng cho rằng, các tổ chức quốc tế và trong nước đánh giá, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là khá thấp. Tuy nhiên, trên thực tế, nợ công vẫn đang là vấn đề cấp bách.

Thứ nhất, chỉ tiêu nợ phải trả (nợ gốc và lãi) có nguy cơ tiến sát vượt ngưỡng cảnh báo. Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn nêu trên, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn/thu ngân sách nhà nước (NSNN) đã tăng lên 22,3% (ngưỡng an toàn 25%).

Thứ hai, nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh trong khi nguồn trả nợ công không bền vững. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ/thu NSNN tăng lên 38% vào năm 2014 và 45% năm 2015. Hệ quả là, tình trạng vay để trả nợ gốc ngày càng tăng, lên đến 80.000 tỉ đồng năm 2014 và 150.000 tỉ đồng năm 2015. Tuy nhiên, khả năng gia tăng thu ngân sách/GDP giảm mạnh, cụ thể năm 2011 là 25,9%  xuống 22,1% năm 2015 và dự kiến tiếp tục giảm.

Thứ ba, tác động tiêu cực của nợ công với nền kinh tế. Các khoản lãi và một phần nợ gốc phải trả trong ngắn hạn đang ngày càng tăng cao, gây sức ép lên cân bằng NSNN. Do đó, Chính phủ đang phải liên tục phát hành TPCP để bù đắp thâm hụt NSNN. Hệ quả là, quy mô nợ công tăng theo tần suất và quy mô phát hành TPCP.

Ngoài ra, lãi suất bị đẩy lên cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp, từ đó làm giảm nguồn thu của NSNN để thanh toán các khoản vay.

 

Nhiều thách thức đặt ra

Việc nợ công tăng cao dự báo sẽ khiến cho Việt Nam đối mặt nhiều thách thức trong thời gian tới. Cụ thể, theo nghiên cứu của BIDV, cơ cấu thu chi ngân sách tiếp tục tạo ra nhiều áp lực tăng nợ công, cân đối thu chi NSNN của Việt Nam được dự báo sẽ chịu áp lực lớn trong thời gian tới.

Về thu ngân sách, sự sụt giảm của tỷ lệ thu ngân sách/GDP dẫn tới thâm hụt ngân sách, qua đó làm gia tăng nợ công. Và về chi ngân sách, báo cáo chỉ ra rằng nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng khoảng 10-12% GDP/năm giai đoạn 2015- 2020 vượt xa khả năng của NSNN. 

Bên cạnh đó, yêu cầu tăng trưởng kinh tế cũng sẽ gây áp lực nên nợ công. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016-2020 đã được xác định ở mức 6,5-7%/năm, mức khá tham vọng trong bối cảnh hiện nay. Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc và Trung Quốc, để Việt Nam đạt được mức tăng NSLĐ mục tiêu 5% như Bộ KH&ĐT khuyến nghị, cần lượng vốn đầu tư rất lớn, có thể cao hơn mức 32-34% GDP theo kế hoạch phát triển xã hội (2016 – 2020) và cần những cải cách thể chế quyết liệt. 

Một thách thức nữa sẽ đặt ra đối với Việt Nam là nợ ưu đãi nước ngoài sẽ giảm dẫn tới yêu cầu về các nguồn thay thế, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ sớm “tốt nghiệp” ODA. Theo đó, giảm dần vốn ODA ưu đãi sau khi đạt đỉnh vào 2009; giảm nguồn vốn viện trợ không hoàn lại và ưu đãi, thay vào đó là các kênh tín dụng mới có các điều kiện cho vay kém ưu đãi hơn;chuyển từ hợp tác giữa các Chính phủ sang hợp tác giữa các đối tác của hai quốc gia. 

 

Giải pháp nào?

Để quản lý nợ công hiệu quả, theo khuyến nghị của BIDV, Việt Nam cần hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nợ công. Theo đó, cần xem xét thành lập Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công (UBGS&KSNC- trực thuộc Quốc hội) có chức năng: Giám sát các vấn đề nợ công và NSNN; Giám sát, chỉ đạo hoạt động và sự phối hợp của các đơn vị liên quan tới các vấn đề trên; Cấp phép và giám sát hoạt động của các cơ quan chuyên môn cao được phép cung cấp dịch vụ tư vấn và đấu thầu cho dự án dùng vốn nợ công; Tham mưu cho Quốc hội về việc Ban hành Luật, trong đó có quy định về đãi ngộ/ chế tài đối với cá nhân liên quan tới hoạt động quản lý, sử dụng và giám sát nợ công; Phê duyệt và giám sát các quyết định về NSNN, khoản vay và cho vay từ nguồn nợ công với một giá trị tối thiểu cho trước; dưới mức ngưỡng này, BTC tự xử lý, UBGS&KSNC chỉ giám sát.

Bộ Tài chính cần đưa ra văn bản hướng dẫn thi hành Luật về nợ công, quản trị rõ ràng; Xây dựng hệ thống quốc gia về khai báo các khoản vay; Trong thẩm quyền được giao, BTC tự ra quyết định về NSNN, phê duyệt các khoản vay và đầu tư trên cơ sở tham khảo ý kiến của các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp đã được UBGS&KSNC chấp thuận.  

Đổi mới trong quản lý vốn vay nước ngoài, cần thông qua một đầu mối cho vay và quản lý ODA. Ngoài ra, theo kinh nghiệm của các nước phát triển, BIDV đề xuất một mô hình mới trong việc tổ chức vận động, thu hút và quản lý các dự án vay vốn nước ngoài: Lựa chọn một ĐCTC có kinh nghiệm về tín dụng đầu tư phát triển (điển hình là BIDV), là đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm thực hiện thẩm định, đề xuất cơ chế tài chính áp dụng đối với dự án, điều kiện vay áp dụng cho Dự án…; Đơn vị này phải có kinh nghiệm trong việc quản lý các khoản vay nước ngoài, năng lực về tài chính để có thể chịu được rủi ro không ảnh hưởng đến NSNN.

Trung tâm nghiên cứu BIDV cũng khuyến nghị cần nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công và đầu tư công. Cụ thể BTC đầu mối xây dựng, hoàn thiện trình Chính phủ phương án tái cơ cấu nợ công; gắn tái cơ cấu đầu tư công với tái cơ cấu NSNN, ngành tài chính-ngân hàng,  các DN và nền kinh tế.

 

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tăng cường kỷ luật NSNN và phối hợp chính sách. Theo đó, Chính phủ chỉ đạo Bộ KH&ĐT phối hợp các Bộ ngành, địa phương: Rà soát việc thực hiện dự toán chi ngân sách năm 2016; Xây dựng các quy hoạch, kế hoạch và dự án đầu tư từ vốn NSNN giai đoạn 2015-2020 và vốn TPCP trên cơ sở bám sát định hướng Chiến lược phát triển KT-XH các giai đoạn của cả nước, các Bộ ngành, địa phương. 

Cuối cùng, Trung tâm nghiên cứu BIDV khuyến nghị Việt Nam cần phát triển nội lực của nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Theo đó, cần tăng cường các giải pháp hỗ trợ DN, nhà đầu tư và người dân nhằm: thúc đẩy phân bố nguồn lực, phát triển kinh tế và tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước lên >30%.  Chính phủ, các Bộ ngành và DN đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, nhất là tái cơ cấu DNNN và đầu tư công; Chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu.

Đồng thời phát triển cân bằng hệ thống tài chính nhằm mở rộng nguồn huy động tài trợ cho nợ công trong nước: nợ công trong nước chủ yếu qua phát hành TPCP và đa số do các NHTM nắm giữ, nguyên nhân là do hệ thống tài chính hiện đang phụ thuộc khối ngân hàng, trong khi TTCK và trái phiếu chưa phát triển. Theo đó, yêu cầu trước mắt là tăng cường năng lực tài chính của các NHTM, sau đó phải nhanh chóng có biện pháp phát triển đồng bộ và tiếp tục mở rộng quy mô các thị trường trong hệ thống tài chính.

Nên đọc
Hòa Lộc
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo