Phân tích

Việt Nam có lợi thế gì để phát triển ngành thép?

(DNVN) - Theo Bộ Công Thương, trên cơ sở xem xét các yếu tố cạnh tranh cho thấy, ngành thép Việt Nam có một số lợi thế về nhân công, đầu vào, về chi phí vận chuyển và bán hàng...

Cụ thể, về lợi thế nguồn nguyên liệu đầu vào, Việt Nam có trữ lượng quặng sắt lớn, khoảng 1,3 tỷ tấn, trong đó mỏ sắt Thạch Khê có trữ lượng 550 triệu tấn, đã hoàn thành các giai đoạn chuẩn bị đầu tư song chưa thể đưa vào khai thác do công suất các lò cao trong nước còn nhỏ, nhu cầu tiêu thụ quặng sắt không nhiều. Để đảm bảo sự ổn định trong quá trình vận hành, các dự án Luyện thép liên hợp lớn sử dụng quặng sắt nhập khẩu phải dự trữ lượng nguyên liệu tối thiểu cho 90 ngày/365 ngày hoạt động. Vì vậy, nếu sử dụng quặng sắt trong nước sẽ giảm được khối lượng quặng dự trữ, giảm được chi phí vốn lưu động, nâng cao khả năng cạnh tranh.

Nếu xây dựng được các khu luyện thép liên hợp có công suất 7-10 triệu tấn/năm, mỗi năm chúng ta có thể khai thác được khoảng 15 triệu tấn quặng sắt từ mỏ sắt Thạch Khê và các mỏ sắt khác trong nước. Lượng quặng sắt trong nước đủ dùng cho khoảng thời gian 30 năm. 

Ảnh minh họa.

Với giá quặng nhập khẩu hiện nay khoảng 60 USD/tấn thì mỗi năm sẽ đóng góp khoảng 900 triệu USD vào giá trị sản xuất nội địa, tương đương 2 triệu tấn dầu thô theo thời giá hiện nay, đóng góp khoảng 0,3% GDP ( năm 2015, GDP Việt Nam khoảng 193 tỷ USD). Đồng thời, sẽ góp phần hạn chế nhập siêu ngành thép mỗi năm 3-4 tỷ USD, tăng nội lực đất nước, đảm bảo nền công nghiệp quốc phòng vững mạnh.
Ngoài ra, Việt Nam còn có nguồn tài nguyên rất phong phú như: đá vôi, đô lô mít, quặng kim loại màu để sản xuất ferro (Crôm, Ni ken, Măng gan...) là các kim loại phụ trợ cần thiết cho quá trình luyện thép.

Lợi thế cảng nước sâu, để đảm bảo hiệu quả kinh tế, các nhà máy thép cán nóng trên thế giới đều được xây dựng với công suất từ 2-3 triệu tấn/năm trở lên tại các vị trí ven biển gần cảng nước sâu để giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm.

Với lợi thế hơn 3.000 km bờ biển và hệ thống cảng nước sâu phong phú, Việt Nam có đủ điều kiện để xây dựng những Khu liên hợp luyện thép cỡ lớn, đảm bảo hiệu quả về kinh tế và an toàn về môi trường tại các khu vực tiềm năng có cảng nước sâu như Nghi Sơn, Dung Quất, Cà Ná...

Lợi thế nhân công, so với các quốc gia có nền công nghiệp thép phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc, Việt Nam có thu nhập bình quân đầu người thấp. Ngành thép là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, do vậy giá nhân công rẻ là một lợi thế lớn.

Lợi thế về chi phí vận chuyển và bán hàng, với mức tiêu thụ thép trên 20 triệu tấn/năm, Việt Nam là một thị trường tiêu thụ thép lớn trong khu vực Đông Nam Á. Đặc trưng của sản phẩm thép có trọng lượng và kích cỡ lớn cần có hệ thống phân phối rộng khắp. Việc tiêu thụ các sản phẩm thép trong thị trường nội địa với hệ thống đại lý sẵn có của các doanh nghiệp Việt Nam là một lợi thế lớn về bán hàng, chi phí thanh toán chuyển đổi ngoại tệ và vận chuyển so với thép nhập khẩu vào Việt Nam.

 

Sản lượng phôi thép cả nước năm 2016 ước đạt 8 triệu tấn, trong đó sản lượng phôi thép sản xuất bằng công nghệ lò cao ước đạt 2,5 triệu tấn, sản lượng sản xuất bằng công nghệ lò điện ước đạt 5,5 triệu tấn.

Do vậy, theo Bộ Công Thương, nếu được đầu tư bài bản, chọn đúng hướng đi của các dòng sản phẩm, ngành thép Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh đối với hàng hóa nhập khẩu.

Bộ Công Thương cho biết, quá trình rà soát Quy hoạch cho thấy, đến năm 2020 cả nước sẽ thiếu hụt khoảng 15 triệu tấn thép thô, đến năm 2025, thiếu hụt sẽ vượt mức 20 triệu tấn thép thô, nhập siêu ngành thép sẽ ngày càng trầm trọng hơn.

Trước đây, do các doanh nghiệp trong nước không đủ năng lực tài chính và kỹ thuật nên Việt Nam phải kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư các Khu luyện thép liên hợp. Đến nay, đã có ba dự án Khu luyện thép liên hợp được cấp Giấy chứng nhận nhận đầu tư là dự án Khu liên hợp Cà Ná (Liên doanh giữa tập đoàn Lion và Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam), dự án Nhà máy thép Guanglian Dung Quất (nhà đầu tư Đài Loan) và dự án của Công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Gọi tắt là Dự án Formosa). Trong số ba dự án trên chỉ có duy nhất dự án Formosa Hà Tĩnh được triển khai, hai dự án còn lại đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư do không tiến hành triển khai đúng quy định.

Đến nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đã có đủ năng lực, có thể đầu tư các tổ hợp thép có quy mô lớn mà không cần đến các nhà đầu tư nước FDI.

 

Bộ Công Thương đánh giá, nếu chúng ta không phát triển các dự án Khu liên hợp luyện thép lò cao để sản xuất các loại thép phục vụ ngành cơ khí chế tạo sẽ có một nghịch lý là sở hữu lượng quặng sắt rất lớn và các chất trợ dung, phụ liệu sản xuất nhưng ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp quốc phòng và đóng tàu phục vụ kinh tế biển lại phụ thuộc hoàn toàn vào thép nhập khẩu với khối lượng lớn. Điều này gây ra tình trạng nhập siêu lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng lớn tới sự ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước.

Các loại thép sản xuất trong nước có nhiều lợi thế cạnh tranh so với thép nhập khẩu trong điều kiện cạnh tranh bình đẳng, không có yếu tố trợ giá. Trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã tiến hành các biện pháp tự vệ đối với một số sản phẩm thép nhập khẩu có trợ giá của nước ngoài. Giai đoạn này là thời điểm thích hợp để Việt Nam phát triển ngành công nghiệp thép.

Nên đọc
Hòa Lộc
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo