“Bước ngoặt” đầy rủi ro ở Trung Quốc
Theo bài “Sự chuyển đổi đầy rủi ro ở Trung Quốc” đăng trên tờ Le Monde hôm 27/3 được RFI dẫn lại, tăng trưởng và đô thị hóa nhanh chóng trong lúc tỷ lệ sinh sản giảm đi là nguyên nhân khiến giá lao động tại Trung Quốc tăng lên.
Nội dung cuộc họp của Diễn đàn Phát triển Trung Quốc diễn ra hôm 18/3 vừa qua tại Bắc Kinh cho thấy, Trung Quốc đã bắt đầu một quá trình chuyển đổi khó khăn, vừa phải giảm tăng trưởng, vừa phải thay đổi cách vận hành. Chuyển đổi về chính trị cần phải song hành với chuyển đổi trong kinh tế, và hai quá trình này có quan hệ tương tác với nhau theo những dạng thức phức tạp.
Tình hình kinh tế tốt đẹp cho đến nay không có nghĩa rằng trong tương lai cũng sẽ được đảm bảo tích cực như vậy. Hôm 14/3, Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng đã tuyên bố: “Công cuộc cải cách ở Trung Quốc đã đạt đến giai đoạn quyết định”.
“Nếu không cải cách cơ cấu chính trị, thì không thể hoàn thành trọn vẹn cải cách cơ cấu kinh tế. Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được có thể bị mất, các vấn đề nổi lên trong xã hội không thể giải quyết đến nơi đến chốn, và một bi kịch lịch sử tương tự như Cách mạng Văn hóa lại có thể xảy ra”, ông nói.
Theo Le Monde, các vấn đề chính trị có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng bản thân quá trình chuyển đổi kinh tế cũng hết sức khó khăn. Trung Quốc đã đạt đến cuối thời kỳ “tăng trưởng rộng” với nguồn cung lao động và vốn gia tăng; nay phải hướng về “tăng trưởng sâu” dựa trên việc cải thiện kỹ năng, kỹ thuật.
Điều này dẫn đến việc tăng trưởng sẽ giảm hẳn so với tỷ lệ khoảng 10% hàng năm trong suốt ba thập kỷ qua. Các yếu tố gây phức tạp cho quá trình chuyển đổi là đầu tư quá cao và sự lệ thuộc quá nhiều vào đầu tư.
Về mô hình phát triển, theo định nghĩa của chuyên gia kinh tế Arthur Lewis, thì Trung Quốc dần dà không còn là một đất nước dư thừa lao động. Thu nhập ở mức chỉ đủ ăn của lao động nông thôn đóng góp vào việc duy trì lương bổng trong các ngành tân tiến ở mức thấp, giúp các ngành này thu được rất nhiều lợi nhuận.
Khi các món lợi tức này được tái đầu tư, thì tỷ lệ tăng trưởng trong các ngành hiện đại và cho nền kinh tế nói chung lên rất cao. Nhưng đến một lúc nào đó, lao động nông nghiệp trở nên hiếm hoi, khiến giá thành trong các lĩnh vực hiện đại tăng lên. Kết quả là kinh tế chín muồi hơn thì lợi tức càng giảm đi, tiết kiệm và đầu tư cũng giảm.
Tờ Le Monde nhận định, 35 năm trước, Trung Quốc là đất nước dư thừa lao động, một yếu tố giúp nước này có lợi thế lớn trên thị trường quốc tế. Nhưng nay thì đã khác: nền kinh tế mở rộng gấp 20 lần, hơn phân nửa dân số sống ở các đô thị.
Ngoài ra, tỷ lệ sinh thấp, dân số trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) sẽ sớm đạt đỉnh 996 triệu người trong năm 2015. Tình trạng thiếu lao động ngày càng trầm trọng khiến cho năm 2011 trở thành năm khó khăn chưa từng thấy cho các doanh nghiệp trong việc tuyển dụng cũng như đẩy chi phí nhân công lên cao.
Ông Thái Phương, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc nhấn mạnh: “Tình trạng thiếu hụt lao động được nhận thấy trước tiên tại vùng duyên hải năm 2004, đã lan rộng trên toàn quốc. Năm 2011, các công ty sản xuất gặp khó khăn chưa từng thấy trong việc tuyển dụng”, khiến lương tăng và lợi nhuận giảm.
Theo Le Monde, hiện Trung Quốc đã tiến đến ngã rẽ mà Lewis đã báo trước. Một trong các hậu quả là tỷ lệ vốn đầu tư/ lao động tăng nhanh, còn lợi nhuận từ đồng vốn giảm. Trong khi đó tăng trưởng bền vững cần phải dựa trên việc gia tăng tổng hiệu suất, chứ không phải là tăng tỷ lệ vốn/ lao động.
Louis Kuijs, cựu chuyên gia kinh tế tại Ngân hàng Thế giới cho hay, đóng góp của mức tăng tỷ lệ vốn trên nhân công vào năng suất lao động đã tăng từ 45% những năm 1978 đến 1994 lên 64% vào những năm 1995 đến 2009.
Điều này hoàn toàn có thể thay đổi nếu Trung Quốc có thể thúc đẩy các nhân tố khác đóng góp trong tổng hiệu suất thay vì chỉ tập trung tăng tỷ lệ vốn trên lao động, hướng sẽ chỉ dẫn tới suy giảm trong lợi nhuận khi mức lương thực đang tăng quá nhanh.
Tuy nhiên, khó khăn trong việc chuyển sang tăng trưởng dựa trên tiến bộ kỹ thuật, là một trong những nguyên nhân khiến nhiều nước đã bị lọt vào “bẫy thu nhập trung bình”. Giáo sư Trịnh Vĩnh Niên thuộc Đại học Quốc gia Singapore cho biết, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc đã vượt 4.000 USD, bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình.
Và thực tế, kinh tế Trung Quốc cũng đã xuất hiện hiện tượng giống như các nước từng rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, như tăng trưởng kinh tế thiếu động lực bền vững, phân hóa giàu nghèo, đô thị hóa quá mức, thiếu hụt dịch vụ công khó khăn trong tạo việc làm...
Theo các chuyên gia tài chính, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines... đều là các quốc gia có thu nhập trung bình từ hàng chục năm trước, nhưng tới nay vẫn loay hoay trong giai đoạn phát triển thu nhập GDP bình quân đầu người từ 2.000 - 5.000 USD.
Philippines là quốc gia điển hình về tình trạng vướng “bẫy thu nhập trung bình”, khi mất hàng thập kỷ không thể vượt qua ngưỡng 2.000 USD. Indonesia cũng mất hơn một thập kỷ để từ trên 1.000 USD vượt lên hơn 2.000 USD, trong khi đó, Thái Lan cũng mất hơn hai thập kỷ mới vượt qua con số 3.000 USD.
Trung Quốc, theo đánh giá ở trên hiện cũng đang là nước có thu nhập trung bình. Ông Vương Tuấn - nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Trao đổi kinh tế quốc tế Trung Quốc từng cho rằng, chìa khóa để tránh được “cái bẫy thu nhập trung bình” là đẩy nhanh quá trình chuyển dịch của nền kinh tế Trung Quốc theo mô hình bền vững hơn.
Sự phát triển của kinh tế Trung Quốc phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu và đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Trong khi đó, nhu cầu nội địa lại rất yếu. Ông Vương nói: “Vì sự chênh lệch trong tiêu dùng nội địa, nên khu vực dịch vụ của chúng tôi yếu hơn rất nhiều so với các nước phát triển”.
Ông gợi ý để chống lại cái bẫy này, chính phủ nên nâng cao thu nhập cho người dân và cải thiện an ninh xã hội để thúc đẩy nhu cầu nội địa, trong khi vẫn phải đảm bảo phát triển kinh tế nhanh theo hướng bền vững.
Ông Vương nhận định, “nếu người dân cảm thấy tự tin trong chi tiêu, họ sẽ sẵn sàng chi nhiều hơn nữa. Trung Quốc cần đẩy mạnh tiêu dùng nội địa để đảm bảo phát triển trong tương lai”. Ông tin rằng, Trung Quốc có khả năng đạt được phát triển nhanh nếu nước này thúc đẩy được tiêu dùng nội địa.
Ông nhận định: “Quá trình đô thị hóa của Trung Quốc sẽ còn tiếp tục trong ít nhất là 20 hoặc 30 năm nữa. Vì vậy, tiềm năng phát triển mạnh hơn nữa đi kèm với sự tăng tiêu dùng sẽ là rất lớn”. Ông nhấn mạnh Trung Quốc nên khuyến khích các ý tưởng đột phá và để việc này dẫn dắt nền kinh tế thay vì chỉ làm công xưởng và thị trường của thế giới.
Tờ Le Monde cũng đồng tình cho rằng, muốn trở thành quốc gia thu nhập cao từ nay cho đến năm 2030, Trung Quốc cần phải có những cải cách sâu sắc, đã được nêu ra trong bản báo cáo chung của Ngân hàng Thế giới và Trung tâm Nghiên cứu phát triển của Quốc vụ viện Trung Quốc.
Những cải cách này có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích cá nhân, nhất là các chính quyền địa phương và các công ty quốc doanh. Có thể đây là một trong các nguyên nhân khiến ông Ôn Gia Bảo nhấn mạnh tầm quan trọng của cải cách chính trị, một thử thách lâu dài của Trung Quốc.
Khi đi theo hướng này, kinh tế Trung Quốc có thể bị giảm sút nặng nề. Bắc Kinh đã ấn định mục tiêu tăng trưởng năm nay là 7,5% và 7% cho cả kế hoạch năm năm. Tăng trưởng chậm lại, thì tỷ lệ đầu tư cũng giảm.
Tuy nhiên, nếu muốn tỷ lệ đầu tư từ 50% so với GDP xuống còn 35% mà không gây ra xáo trộn, thì tiêu dùng phải tăng. Trong khi Trung Quốc không có phương tiện nào dễ dàng kích thích tiêu dùng, điều này giải thích vì sao câu trả lời cho khủng hoảng của Bắc Kinh chỉ là tăng thêm đầu tư.
Trung Quốc đang lệ thuộc rất nhiều vào đầu tư trong lĩnh vực xây dựng: Trong 13 năm gần đây, đầu tư vào nhà ở tăng mỗi năm 26%. Theo Le Monde, không thể tiếp tục một tỷ lệ tăng nhanh như thế.
Le Monde nhận định, Trung Quốc có khả năng đạt được thành công trong việc chuyển đổi sang một mô hình tăng trưởng kinh tế khác, mà nhiều nước có thu nhập trung bình không làm được, nhưng với điều kiện các nhà lãnh đạo nước này không nên tự hài lòng với thành quả của chính họ.
End of content
Không có tin nào tiếp theo