10 tháng: Xuất khẩu máy vi tính, điện thoại tăng mạnh nhất
Trong 10 tháng, kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng mạnh nhất trong nhóm hàng xuất khẩu chính. Cụ thể: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong tháng 10/2015 là 1,47 tỷ USD, tăng 8,2% so với tháng trước.
Tính đến hết tháng 10/2015, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 12,81 tỷ USD, tăng 44,7%, trong đó, xuất khẩu sang EU đạt 2,58 tỷ USD, tăng 51,3%, sang Hoa Kỳ: 2,34 tỷ USD, tăng 42,2%; Trung Quốc: 2,14 tỷ USD, tăng 23,1%; Hồng Kông: 1,43 tỷ USD, tăng 108,4%... so với cùng kỳ năm trước.
Tăng mạnh thứ 2 là nhóm hàng điện thoại các loại & linh kiện: Xuất khẩu đạt 25,67 tỷ USD trong 10 tháng/2015 và đóng góp nhiều nhất vào phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
Trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 10/2015 đạt 2,67 tỷ USD, giảm 5,7% so với tháng trước (tương ứng giảm gần 160 triệu USD), nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng/2015 lên 25,67 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm 2014, đóng góp hơn 6 tỷ USD trong số 10 tỷ USD của phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
EU là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện từ Việt Nam với trị giá đạt 8,55 tỷ USD, tăng 22,7% và chiếm 33,3% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước; tiếp theo là các thị trường: các Tiểu Vương Quốc Arập thống nhất: 3,89 tỷ USD, tăng 24,6%; Hoa Kỳ: 2,28 tỷ USD, tăng 105,7%; Hồng Kông: 1,22 tỷ USD, tăng 75,8%; Hàn Quốc: 1,19 tỷ USD, tăng hơn 4 lần... so với cùng kỳ năm 2014.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng: trong tháng 10/2015, xuất khẩu đạt gần 774 triệu USD, tăng 9,5% so với tháng trước, đưa tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng/2015 lên 6,65 tỷ USD, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2014.
Tính đến hết tháng 10/2015, xuất khẩu nhóm hàng này sang Hoa Kỳ là 1,33 tỷ USD, tăng 26,5%; sang Nhật Bản: 1,16 tỷ USD, giảm 3%; sang Trung Quốc đạt gần 587 triệu USD, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm trước.
Hàng dệt may: xuất khẩu nhóm hàng dệt may trong tháng 10/2015 đạt gần 1,98 tỷ USD, giảm 7,4% so với tháng trước, qua đó nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng/2015 lên 18,95 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2014.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 9,51 tỷ USD, tăng 12,3%; sang EU đạt 2,8 tỷ USD, tăng 3,5%; sang Nhật Bản đạt 2,28 tỷ USD, tăng 5,6%. Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sang 3 thị trường trên đã chiếm tới 75% tổng trị giá xuất khẩu hàng dệt may của cả nước.
Giày dép các loại: kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 959 triệu USD, tăng 18,7% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10/2015, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt 9,7 tỷ USD, tăng mạnh (17%) so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 3,34 tỷ USD, tăng 24,8% và chiếm 34,4% kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước; tiếp theo là xuất khẩu sang thị trường EU đạt 3,24 tỷ USD, tăng 12,6%; sang Trung Quốc đạt 611 triệu USD, tăng 43,4%; sang Nhật Bản đạt 489 triệu USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2014.
Xơ, sợi dệt các loại: xuất khẩu mặt hàng này của cả nước trong tháng đạt gần 80 nghìn tấn với trị giá gần 208 triệu USD, tăng 1,1% về lượng và 0,3% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10/2015, lượng xuất khẩu nhóm hàng này đạt 796 nghìn tấn, tăng 12,9% và trị giá đạt 2,12 tỷ USD, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước
Trong 10 tháng đầu năm 2015, nhóm hàng xơ sợi dệt các loại xuất khẩu sang Trung Quốc đạt hơn 412 nghìn tấn tăng 30,9%; sang Hàn Quốc đạt 60,4 nghìn tấn, tăng 7,9%, sang Thổ Nhĩ Kỳ đạt 79 nghìn tấn, giảm 13,3%... so với cùng kỳ năm 2014.
Gỗ & sản phẩm gỗ: xuất khẩu trong tháng đạt 634,5 triệu USD, tăng 12,6% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng/2015 lên 5,54 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2014.
Tính đến hết tháng 10/2015, nhóm hàng gỗ & sản phẩm gỗ xuất sang Hoa Kỳ đạt 2,15 tỷ USD, tăng 18%; sang Nhật Bản: 832 triệu USD tăng 5,1%; sang Trung Quốc: 740 triệu USD tương đương với mức xuất khẩu cùng kỳ năm 2014.
Trái ngược với các mặt hàng trên, trong 10 tháng vừa qua, kim ngạch xuất khẩu than đá giảm mạnh nhất: Lượng than đá xuất khẩu trong 10 tháng/2015 chỉ bằng gần ¼ cùng kỳ năm 2014 (tương ứng giảm 4,76 triệu tấn).
Lượng xuất khẩu than đá của cả nước trong tháng đạt 107 nghìn tấn, giảm 23,9% và trị giá đạt 11,42 triệu USD, giảm 22,7% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10/2015, cả nước xuất khẩu 1,53 triệu tấn, giảm mạnh 75,7% và trị giá là 162 triệu USD, giảm 65,4% so với cùng kỳ năm 2014.
Giảm mạnh tiếp theo là mặt hàng dầu thô: Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng/2015 giảm 3,04 tỷ USD so với 10 tháng/2014. Trong tháng, lượng xuất khẩu dầu thô là 761 nghìn tấn, tăng khá 10,4% so với tháng trước và trị giá đạt 276 triệu USD, tăng 11,4%.
Tính đến hết tháng 10/2015, lượng dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt gần 7,7 triệu tấn, tăng nhẹ 1,2% và kim ngạch đạt 3,26 tỷ USD, giảm mạnh 48,3% (do đơn giá xuất khẩu bình quân trong 10 tháng/2015 giảm mạnh 48,9% so với cùng kỳ năm trước).
Dầu thô của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc: 1,47 triệu tấn, tăng 10,8%, sang Singapo: 1,36 triệu tấn, tăng 3 lần; sang Nhật Bản: 1,23 triệu tấn, giảm 27,2%; sang Malaixia: 1,29 triệu tấn, tăng 54,3% so với cùng kỳ năm 2014.
Nhiều mặt hàng khác cũng giảm mạnh về giá trị xuất khẩu như gạo, thủy sản, cà phê... Cụ thể:
Mặt hàng gạo: Xuất khẩu sang Indonexia sau gần 1 năm ở mức rất thấp đã được nối lại với lượng xuất khẩu lên tới 218 nghìn tấn trong tháng 10/2015 (9 tháng/2015 xuất khẩu sang thị trường này chỉ gần 17 nghìn tấn).
Dù đơn giá xuất khẩu tháng 10/2015 giảm so với tháng trước nhưng do lượng tăng mạnh (đạt 859 nghìn tấn, tăng 82,9%) nên trị giá xuất khẩu trong tháng đạt hơn 353 triệu USD, tăng 83,5% so với tháng 9/2015. Tính đến hết tháng 10/2015, lượng xuất khẩu gạo là 5,36 triệu tấn, giảm 3,9% và trị giá đạt 2,28 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 10 tháng năm 2015, Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với 1,95 triệu tấn, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 36% tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước. Xuất khẩu gạo sang Philipin giảm mạnh 26,8% về lượng, đạt 919 nghìn tấn; tiếp theo là Malaixia: 476 nghìn tấn, tăng 11,5%; Ghana: 320 nghìn tấn, tăng 16,8%.
Cà phê: Lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 10/2015 là 89 nghìn tấn, trị giá đạt 171 triệu USD, tăng 2,6% về lượng và tăng 2,5% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10/2015, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt hơn 1 triệu tấn, trị giá đạt 2,14 tỷ USD, giảm 29,3% về lượng và giảm 31,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2014.
Hàng thủy sản: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng đạt 676 triệu USD, tăng 7,4% so với tháng trước và là tháng có kim ngạch cao nhất kể từ đầu năm. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng là 5,43 tỷ USD lại giảm 16,9% so với cùng kỳ năm 2014.
Trong 10 tháng/2015, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường chính đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,07 tỷ USD, giảm 25,2%; EU: 978 triệu USD, giảm 17,2%; Nhật Bản: 848 triệu USD, giảm 13,3%; Hàn Quốc: 160 triệu USD, giảm 13,6%...
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Xem nhiều nhất
Giá vàng ngày 23/12/2024: Biến động trái chiều
Ba lĩnh vực được dự báo tăng trưởng ấn tượng
Giá ngoại tệ ngày 23/12/2024: USD vẫn tăng mạnh nhờ động thái của Fed
Giá nông sản ngày 23/12/2024: Hồ tiêu và cà phê giữ mức ổn định
Giá heo hơi ngày 23/12/2024: Miền Bắc thiết lập mức giá mới
Doanh nghiệp nước giải khát đẩy mạnh phát triển bền vững