Thị trường

Cam kết lãi suất 15%/năm là… thừa

Trao đổi với PV báo Tiền Phong, ông Nguyễn Hoàng Hải, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) cho rằng, việc cam kết giữ lãi suất ổn định ở mức 15%/năm là thừa.

Ông Nguyễn Hoàng Hải nói: Về khách quan, việc Thống đốc cam kết sẽ giữ lãi suất cho vay ổn định ở mức 15%/năm, ít nhất một năm, hoàn toàn có thể đạt được một cách dễ dàng, trong tầm tay mà chưa cần tác động ngoại lực.

 

Thực tế, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Bộ trưởng Bộ Tài chính có thể chọn nhiều nước cờ hay hơn.

 

Trong điều kiện kinh tế hiện nay, lạm phát thấp, tín dụng tăng chậm và chính sách vĩ mô đang ổn định... thì hoàn toàn có thể đưa lãi suất huy động về mức 6-7%/năm, lãi suất cho vay dao động quanh mức 10%/năm. Mức chênh lệch lãi suất 3-4% là hợp lý.

 

Tôi cho rằng, ở tầm thống đốc, lẽ ra, phải đưa ra những quyết sách thông minh và hiệu quả hơn, khiến mọi người phải thấy ngạc nhiên, thán phục. Chứ cam kết của Thống đốc là hơi khiêm tốn.

 

Nếu các doanh nghiệp được vay với lãi suất thấp như thời kỳ 2003-2007 (khoảng 8-9%/năm ), thì sẽ có lợi hơn cho nền kinh tế.

 

Nếu ông là Thống đốc, ông làm thế nào để hạ nhanh được lãi suất cho vay, nhất là trong bối cảnh hiện nay?

 

Theo tôi, trước hết là giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ từ 2%/năm xuống 0%/năm (hiện lãi suất tiền gửi của các tổ chức tài chính là 0,5%/năm, cá nhân là 2%/năm).

 

Việc giảm lãi suất này không sợ gây bất ổn thị trường ngoại tệ, cũng không lo người dân rút tiền khỏi ngân hàng. Nhưng là biện pháp hữu hiệu để chống đô la hóa nền kinh tế, nâng cao giá trị và sức hấp dẫn của đồng nội tệ, ổn định tỷ giá.

 

Đây là điều kiện để giảm nhanh lãi suất cho vay. VAFI cũng từng kiến nghị nhiều lần và Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất USD từ 3% xuống 2%/năm.

 

Thứ hai, áp thuế VAT 10% với kinh doanh vàng miếng, vàng trang sức thay vì miễn thuế như hiện nay.

 

Các mặt hàng kinh doanh khác đều đang chịu thuế VAT, tại sao không điều tiết thuế đối với vàng để có thêm nguồn thu cho ngân sách, ổn định thị trường vàng.

 

Nhưng điều quan trọng hơn, đây là một cách “đắp đập” để ngăn chặn đầu cơ vào vàng, kích thích dân chuyển sang dùng tiền đồng. Nếu làm được như vậy, hệ thống ngân hàng có thể thu hút thêm 200 nghìn tỷ đồng từ nguồn vàng tích trữ trong dân.

 

Hiện nay, theo ước tính, lượng vàng trong dân khoảng 350-400 nghìn tỷ đồng. Nhưng lượng tiền này đang nằm dưới gầm giường, chôn dưới đất, là dòng vốn “chết”.

 

Phải có chính sách tốt và ổn định mới làm người dân tin tưởng, từ đó, dòng vốn mới dịch chuyển được.

 

 

ông Nguyễn Hoàng Hải.

 

Thế còn vấn đề nợ xấu, ông sẽ xử lý thế nào?

 

Trước đây, tôi từng tham gia viết đề án thành lập công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng doanh nghiệp (DATC). Tôi thấy đây là vấn đề rất phức tạp, nếu lập Công ty mua bán nợ xấu quốc gia (AMC) như dự định của Ngân hàng Nhà nước càng khó hơn.

 

Việc soạn thảo cơ chế, khung pháp lý cho DATC ra đời mất ba năm, sau đó để triển khai nghiệp vụ mua bán nợ mất thêm bốn năm. Nhưng thực tế số vụ mua bán nợ của DATC chỉ đếm trên đầu ngón tay.

 

Công luận hãy theo dõi việc DATC xử lý các khoản nợ xấu của Bianfishco, chắc sẽ phải mất ba, bốn năm. Vậy với hàng ngàn khoản nợ xấu của ngân hàng, mà xử lý theo cách của DATC thì bao giờ mới xong.

 

Nếu tiếp tục cho ra đời công ty AMC, thì nhanh lắm cũng mất năm đến bảy năm. Đến lúc đó, khéo các ngân hàng phục hồi rồi. Ở đây có vấn đề, nếu nhà nước mua nợ xấu với giá rẻ thì các ngân hàng có chịu bán không, hay lại đem bán cho tư nhân với giá cao hơn? Cho nên, việc thành lập AMC là không khả thi, mà rất có thể lại biến nó thành “bãi chứa rác” khổng lồ.

 

Cách đây ít ngày, VAFI đã có đề xuất 10 giải pháp để xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, như: Chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi, chuyển một phần nợ gốc của doanh nghiệp, dự án đầu tư tốt thành trái phiếu trung hạn, chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần (các ngân hàng - chủ nợ sẽ trở thành cổ đông lớn trong doanh nghiệp).

 

Đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới, vừa cứu doanh nghiệp khỏi phá sản, vừa bảo toàn được nguồn vốn của các ngân hàng thương mại. Sau chuyển đổi, các ngân hàng thương mại cũng dễ dàng tìm được người mua;

 

Tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng lên 40%, đồng thời cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài lên mức 25- 30%/vốn điều lệ.

 

Ngoài ra, xem xét cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, quản trị tốt mua lại các ngân hàng yếu kém; Miễn các loại thuế (thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp…) cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ tư nhân…

 

Cảm ơn ông.

Theo TP

 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo