Xã hội

Cần tôn trọng nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam

Chiều 23/ 5, Chính phủ đã trình Quốc hội Dự án Luật tạm giữ, tạm giam.

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ công an Trần Đại Quang trình bày Tờ trình dự án Luật tạm giữ, tạm giam tại hội trường chiều 23/5.
Theo nội dung tờ trình, tạm giữ, tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, do cơ quan, người tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị bắt quả tang, truy nã, khẩn cấp và đối với bị can, bị cáo nhằm cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, ngăn chặn hành vi trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử, cản trở việc xác định sự thật của vụ án hoặc để bảo đảm thi hành án.

 

Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày tờ trình về dự thảo Luật tạm giữ, tạm giam trước Quốc hội chiều 23/5.
Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày tờ trình về dự thảo Luật tạm giữ, tạm giam trước Quốc hội chiều 23/5.

 

Theo báo cáo của Chính phủ, trong những năm qua, việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam đã được tổ chức chặt chẽ, phục vụ có hiệu quả cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đồng thời, bảo vệ tốt quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. 

Bên cạnh những thuận lợi và kết quả đã đạt được, việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc như quy định của pháp luật hiện hành về chế độ quản lý giam giữ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam chưa cụ thể; chế độ ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam chưa phù hợp với điều kiện thực tế; chưa có quy định về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đồng tính hoặc người có khiếm khuyết về giới tính…
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc xây dựng, ban hành Luật tạm giữ, tạm giam trong tình hình hiện nay là cần thiết. Trên cơ sở đó, Chính phủ xây dựng Luật tạm giữ, tạm giam gồm có 11 chương, 87 điều.
Báo cáo với Quốc hội về dự án Luật Tạm giữ, tạm giam, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp (UBTP) Nguyễn Văn Hiện nhận định, Ban soạn thảo đã cố gắng thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các quy định của dự án Luật.
Trong số các vấn đề còn có ý kiến khác nhau, Chủ nhiệm Nguyễn Văn Hiện cho biết, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam, dự thảo Luật chỉ nên quy định theo hướng hạn chế một số quyền của người bị tạm giữ, tạm giam, còn các quyền khác nếu không bị hạn chế thì vẫn được bảo đảm thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, cần rà soát những nội dung liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân để quy định tập trung, rõ ràng, cụ thể ngay trong dự án Luật, mà không giao cho Chính phủ, các bộ, ngành quy định theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần xác định rõ hơn về mô hình hệ thống các cơ quan quản lý nhà tạm giữ, trại tạm giam (đây là vấn đề chưa được đề cập rõ trong Tờ trình cũng như trong dự án Luật này). Mô hình đó phải đáp ứng yêu cầu bảo đảm tính minh bạch, khách quan, độc lập về mặt tổ chức, quản lý cán bộ với cơ quan điều tra, tránh tình trạng điều tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với người bị tạm giữ, tạm giam và các hình thức khác vi phạm quyền của người bị tạm giữ, tạm giam đã xảy ra trong thời gian qua.
UBTP đề nghị nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức quản lý trại tạm giam, nhà tạm giữ theo hệ thống dọc do Tổng cục Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ Công an quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ như đối với hệ thống trại giam hiện nay, bảo đảm minh bạch, rõ trách nhiệm giữa cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam và cơ quan điều tra, có sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan này trong việc chấp hành pháp luật tạm giữ, tạm giam, nhất là bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, sự tôn trọng về nhân phẩm, danh dự của người bị tạm giữ, tạm giam.
Nhiều ý kiến đề nghị, dự án Luật cần quy định cụ thể cả về quyền hạn và trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của các chủ thể thực hiện quản lý đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong việc bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam.
Qua hoạt động giám sát, khảo sát của UBTP cho thấy, hiện nay tại mỗi tỉnh có 1 trại tạm giam, mỗi huyện có 1 nhà tạm giữ, có những trại tạm giam, nhà tạm giữ luôn trong tình trạng quá tải, nhưng cũng có trại tạm giam, nhà tạm giữ lại không có đủ số lượng theo quy mô xây dựng. Do đó, Dự án Luật cần nghiên cứu xây dựng mô hình hoàn thiện hơn để sử dụng trại tạm giam, nhà tạm giữ hợp lý, hiệu quả, khắc phục được tình trạng bất cập nêu trên.
Luật hóa việc hỏi cung, thiết kế hệ thống phòng hỏi cung
Thẩm tra Dự án Luật Tạm giữ, tạm giam, Ủy ban tư pháp đánh giá, dự án Luật đã được Chính phủ chuẩn bị tương đối công phu. Ủy ban tán thành với Chính phủ về sự cần thiết ban hành dự án Luật này, bảo đảm các quy định về tạm giữ, tạm giam phù hợp với Hiến pháp năm 2013, theo đó quyền công dân chỉ bị hạn chế bởi luật; khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, nhất là tình trạng chết, bức cung, nhục hình, vi phạm quyền con người xảy ra ở Nhà tạm giữ, Trại tạm giam trong thời gian qua, đồng thời phúc đáp yêu cầu cải cách tư pháp trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

 Cần tôn trọng nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam để tránh những vụ án oan như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang).
Cần tôn trọng nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam để tránh những vụ án oan như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang).

Về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam, Ủy ban tán thành với nhiều quy định của dự án Luật. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật, các quyền này còn quy định tản mạn, có tính chất liệt kê, chưa đầy đủ. 
UBTP nhận thấy, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì địa vị pháp lý của người bị tạm giữ, người bị tạm giam có sự khác biệt với địa vị pháp lý của người đang chấp hành án phạt tù. Do đó, việc thực hiện chung một chế độ về ăn, ở, mặc, sinh hoạt, chữa bệnh của người bị tạm giữ, tạm giam giống như người đang chấp hành án phạt tù là không phù hợp. Do đó, cần thiết phải quy định cụ thể về chế độ của đối tượng này ngay trong dự án Luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp quy định. 
Đáng chú ý, về điều kiện bảo đảm thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam, Ủy ban cho rằng, tình trạng bức cung, nhục hình trong thời gian qua đã gây bức xúc trong dư luận nhân dân, chủ yếu xảy ra trong quá trình điều tra, nhất là giai đoạn tiền khởi tố đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Mặc dù việc bức cung, dùng nhục hình không phải do người quản lý tạm giữ, tạm giam gây ra, nhưng các vụ việc đó lại xảy ra trong Nhà tạm giữ, Trại tạm giam. 
Để tăng cường công tác chống bức cung, nhục hình, Ủy ban đề nghị Chính phủ nghiên cứu quy định ngay trong dự án Luật về việc thiết kế hệ thống các phòng hỏi cung, các hình thức giám sát, kiểm tra, kiểm sát việc hỏi cung, quyền giám sát việc hỏi cung của người quản lý tạm giữ, tạm giam; việc trích xuất bị can, bị cáo, người bị tạm giữ để lấy lời khai; việc kiểm tra sức khỏe người bị tạm giữ, tạm giam trước và sau trích xuất; trách nhiệm của Nhà tạm giữ, Trại tạm giam khi có bức cung, nhục hình trong giai đoạn tạm giữ, tạm giam.... để bảo đảm căn cứ pháp lý cụ thể cho việc tổ chức thực hiện. Nhất là trong việc xác định trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, người có thẩm quyền trong tạm giữ, tạm giam. 
Về quản lý, chế độ đối với người bị kết án tử hình bị tạm giam, UBTP cho rằng, qua tổng kết thực tiễn thì mô hình quản lý giam giữ đối với người bị kết án tử hình tại các Trại tạm giam như hiện nay về cơ bản là phù hợp, bảo đảm phục vụ kịp thời cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; tạo điều kiện cho công tác bảo đảm an ninh, trật tự của các cơ sở giam giữ; đồng thời cũng tạo thuận lợi cho thân nhân của người bị thi hành án tử hình tiếp nhận xác để an táng. Tuy nhiên, với việc duy trì mô hình này thì công tác thi hành án tử hình cần có sự đổi mới về phương thức, theo đó nghiên cứu phương án bố trí các xe thi hành án tử hình lưu động nhằm tránh phát sinh tốn kém cho ngân sách nhà nước trong việc tổ chức thi hành án tử hình như trên thực tế vừa qua.
UBTP đề nghị Chính phủ cần làm rõ những quy định về cơ sở giam giữ người đang chờ thi hành án tử hình tại khoản 4, Điều 3 và khoản 2 Điều 51 của dự án Luật là cơ sở nào; mô hình tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ sở này (nếu có) cũng cần phải được quy định cụ thể trong Luật.
Về kiểm sát chế độ tạm giữ, tạm giam, UBTP cho rằng, dự án Luật cần quy định cụ thể hơn về nội dung, cơ chế, phương thức, thẩm quyền kiểm sát hoạt động tạm giữ, tạm giam để xác định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát và trách nhiệm của cơ quan thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam, góp phần vừa phục vụ công tác điều tra, khám phá tội phạm vừa bảo đảm tốt nhất quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam theo đúng tinh thần của Hiến pháp 2013.

 

Hòa Hậu (t/h)
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo