Môi trường

Chồng chéo phân cấp… khó bảo tồn

Sự thiếu thống nhất trong phân cấp quản lý về bảo tồn đa dạng sinh học đã dẫn đến việc mỗi nơi có cách làm riêng, phá vỡ kết cấu rừng chung của cả nước, ảnh hưởng đến chất lượng rừng và ĐDSH.

“1 nhà nhưng đa chủ”

 

Việt Nam đã quy hoạch và thành lập được 164 khu bảo tồn rừng đặc dụng (KBT RĐD), trong đó có 30 vườn quốc gia (VQG), 58 khu dự trữ thiên nhiên, 11 KBT loài và sinh cảnh, 45 khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng thực nghiệm nghiên cứu khoa học với tổng diện tích gần 2,2 triệu ha. Dự kiến đến năm 2020 hệ thống này sẽ mở rộng đến 2,4 triệu ha với 176 khu (34 VQG, 58 KBT thiên nhiên, 14 KBT loài và sinh cảnh, 61 khu bảo vệ cảnh quan và 09 khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm. Với các hệ sinh thái khác, Nhà nước cũng đã quy hoạch 16 KBT biển và 45 KBT vùng nước nội địa.

 
 
Tuy nhiên, ở các tỉnh không có sự thống nhất trong việc phân cấp quản lý KBT. Ngoài 6 VQG liên tỉnh trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp, còn có hơn 150 VQG/KBT thuộc hệ thống RĐD ở Việt Nam thuộc địa phương quản lý nhưng cũng có sự phân cấp quản lý khác nhau, có nơi VGQ/KBT trực thuộc UBND tỉnh, nơi lại trực thuộc Sở NN&PTNT, có nơi lại do Chi cục Kiểm lâm trực tiếp quản lý.
 
Quản lý đa dạng sinh học cần quy về một mối
 
Thể chế quản lý một VQG trực thuộc trung ương được xem là có thuận lợi nhất định nhờ sự hỗ trợ về nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính cho hoạt động quản lý. Trong trường hợp VQG do cấp trung ương quản lý thì khả năng chi phối, can thiệp của chính quyền địa phương là khó khăn, mặc dù yêu cầu quản lý các VQG này được cho là cần phải phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương. Ngược lại, với các VQG/KBT trực thuộc địa phương, chính quyền địa phương sẽ thuận lợi hơn trong việc quản lý, song lại gặp phải khó khăn về tài chính cho bảo tồn do ngân sách địa phương hàng năm khá hạn chế, không đáp ứng đủ cho nhu cầu tổ chức quản lý, bảo vệ các VQG/KBT một cách hiệu quả.
 
Mặt khác, tình trạng “địa phương hóa” quản lý các KBT và sự hạn chế về thẩm quyền khiến các ban quản lý VQG/KBT không có khả năng phản đối các quy hoạch và quyết định ưu tiên phát triển kinh tế của địa phương có nguy cơ đe dọa cho tính toàn vẹn của tài nguyên ĐDSH của VQG/KBT như xây dựng thủy điện, khai khoáng hay phát triển cơ sở hạ tầng. Cũng vì lý do này, những năm gần đây, nhiều diện tích RĐD đã bị chuyển đổi mục đích cho các dự án phát triển. Theo khảo sát của Trung tâm Con người và Thiên nhiên, ước tính cứ xây dựng 1 MW thủy điện ở Việt Nam sẽ làm mất 2,35 ha RĐD và 62,63 ha đất rừng trong ranh giới của các VQG/KBT.
 
Cần một “lát cắt mới” trong quản lý
 
Luật pháp Việt Nam quy định Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về ĐDSH và giao trách nhiệm cho Bộ TN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước này. Bộ NN&PTNT và các Bộ, cơ quan ngang Bộ khác cũng được Chính phủ phân công thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước theo lĩnh vực ngành dọc do mình phụ trách, trong khi UBND các cấp được phân cấp quản lý ĐDSH trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn theo địa bàn.
 
Có thể nói, những quy định về trách nhiệm của các Bộ, ngành trong quản lý Nhà nước đối với ĐDSH tại các Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004, Luật Thủy sản 2003, Nghị định 109 và Nghị định 1 của Chính phủ mặc dù đã đáp ứng tốt các tiêu chí hợp pháp, đúng thẩm quyền, rõ ràng cụ thể nhưng lại chưa đáp ứng được tiêu chí phù hợp với đặc thù ĐDSH. Bởi  từ trước khi Luật ĐDSH 2008 được ban hành, cách tiếp cận phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, ngành chủ yếu dựa trên cơ sở chia các hệ sinh thái tự nhiên, các bộ phận của ĐDSH thành: Rừng, biển, đất ngập nước… để quản lý, trong khi bản thân các yếu tố trên là một chỉnh thể thống nhất, có độ tương tác rất cao và không dễ dàng phân biệt rạch ròi.
 
Cụ thể là, Bộ NN&PTNT quản lý các khu rừng đặc dụng, các khu bảo tồn vùng nước nội địa, các khu bảo tồn biển. Trong khi đó, Bộ TN&MT chịu trách nhiệm xây dựng và quản lý  các khu đất ngập nước. Tuy nhiên, các hệ sinh thái này luôn luôn đan xen nhau trong một khu bảo tồn như Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định), U Minh Thượng, U Minh Hạ (Cà Mau) gồm cả ba hệ sinh thái là rừng, đất ngập nước, và cửa sông ven biển. Trên thực tế, việc quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên lâu nay vẫn do Bộ NN&PTNT thực thi theo quy định của pháp luật. Điều này cho thấy sự không thống nhất trong phân công trách nhiệm quản lý Nhà nước về ĐDSH.
 
Các chuyên gia đánh giá, nếu sự phân công thời gian tới đây vẫn theo hướng trên, nghĩa là các hệ sinh thái khác nhau sẽ do các cơ quan khác nhau quản lý, bảo vệ thì xem như cách tiếp cận mới, hiện đại của Luật ĐDSH 2008 không có giá trị trên thực tế. Nếu không có một “lát cắt mới” trong quản lý, bảo tồn ĐDSH thì nguy cơ trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành là điều khó tránh khỏi.
 
Các chuyên gia cho rằng, để củng cố hệ thống tổ chức quản lý và tăng cường trách nhiệm của các ngành, địa phương, trước mắt, cần sớm phân định rõ ràng chức năng quản lý bảo tồn ĐDSH giữa các Bộ, ngành. Cụ thể, cần tập trung điều chỉnh một số nhiệm vụ còn chồng chéo giữa Bộ TN&MT và Bộ NN&PTNT; điều chuyển một số nhiệm vụ trong quản lý Nhà nước về đa dạng sinh học của Tổng cục Lâm nghiệp và Tổng cục Thủy sản thuộc Bộ NN&PTNT sang các cơ quan quản lý Nhà nước trực thuộc Bộ TN&MT…
 
Theo Tài Nguyên và Môi Trường
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo