Danh tướng đả bại Quan Vũ, được Tào Tháo ví với Tôn Tử
Theo trang mạng TimeTW, Từ Hoảng (169-227), tự Công Minh, là một trong năm võ tướng dũng mãnh nhất của Nhà Ngụy, bên cạnh Nhạc Tiến, Trương Cáp, Trương Liêu và Vu Cấm.
Danh tướng khôn ngoan, dũng cảm
Từ Hoảng sinh ra ở Dương Quận (nay thuộc Hồng Đồng, Sơn Tây) thời Đông Hán. Ông làm quan nhỏ ở địa phương trong một thời gian ngắn rồi gia nhập quân của Dương Phụng, đánh giặc Khăn Vàng. Khi đó, Từ Hoảng được giao nhiệm vụ chỉ huy kị binh.
Năm 196, khi Đổng Trác chết, Từ Hoảng và Dương Phụng hộ tống Hán Hiến Đế từ Trường An và Lạc Dương. Trong khi đó, Tào Tháo muốn dời đô, đưa Hán Hiến Đế về Hứa Xương.
Dương Phụng quyết đối đầu với Tào Tháo để rồi nhận lấy cái chết trong khi Từ Hoảng đầu hàng Tào. Gia nhập Tào Ngụy, Từ Hoảng tham gia vào tất cả các trận đánh lớn, trước những đối thủ của Tào Tháo như Lã Bố, Lưu Bị, Viên Thiệu, Mã Siêu…
Trong giai cuối thời Đông Hán, dưới trướng Tào Tháo còn có hai võ tướng nổi danh là Trương Liêu và Quan Vũ. Xét về danh tiếng thì Từ Hoảng không thể nào sánh bằng
Sử sách Trung Quốc chép lại, “ngoại trừ Trương Liêu, Quan Vũ chỉ giao hảo với Từ Hoảng”. Mối thân tình giữa ba người không chỉ họ đều là hàng tướng, mà còn bởi cả ba là đồng hương Sơn Tây, thuộc tập đoàn kỵ binh Tinh Châu nổi tiếng.
Năm 204, trong chiến dịch tấn công các con trai của Viên Thiệu, thái thú thành phố Nghi Dương thoạt tiên đầu hàng nhưng sau đó thay đổi quyết định.
Từ Hoảng hiểu rằng đối thủ đang do dự, nên đã cho viết một lá thư thuyết phục và cho lính bắn vào trong thành. Thái thú Nghi Dương ra hàng còn Từ Hoảng chiếm được thành phố mà không phải dùng đến gươm đao.
Trong trận Đồng Quan năm 2011, Từ Hoảng là người hiến kế vượt sông Vị Hà để đánh bọc vào sườn của liên quân khởi binh chống triều đình ở vùng Quan Trung.
Theo đó, Tào Tháo sẽ vượt sông vị thủy chặn đường lui của quân Tây Lương, Từ Hoảng và Chu Linh dẫn 4.000 quân bộ kỵ vượt sông Đồ Bản đánh vào sườn nam của liên quân Quan Trung, khiến trận chiến càng trở nên khốc liệt.
Năm 215, Từ Hoảng được điều đến Dương Bình để bảo vệ Hán Trung. Lưu Bị nhà Thục Hán lúc đó đang tìm cách chặn đường vận lương của quân Ngụy. Từ Hoảng biết được, nên ra lệnh đánh trực diện vào quân Lưu Bị.
Vô số quân địch nhảy xuống vực. Thành phố này vì vậy tạm gác được mối đe dọa từ Lưu Bị trong một thời gian ngắn.
Lập kỳ tích đánh bại Quan Vũ
Sau khi bỏ Tào Tháo để trở về dưới trướng Lưu Bị, Quan Vũ lập thêm được nhiều chiến công, trở thành tướng lĩnh cốt lõi trong lực lượng quân đội Thục Hán.
Trong khi Lưu Bị cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân đem quân chủ lực chinh phạt Ích Châu, nhiệm vụ trấn thủ Kinh Châu được giao cho Quan Vũ.
Năm 219, Quan Vũ chỉ huy quân quân Kinh Châu tấn công Tương Dương-Phàn Thành. Quan Vân Trường giành được thắng lợi bước đầu như đánh bại quân tiếp viện của Vu Cấm, chém đầu Bàng Đức, tạo ra "uy chấn Trung Nguyên”.
Chiến dịch vây hãm của Quan Vũ rơi vào bế tắc khi Tào Nhân cố thủ ở Phàn Thành.
Để chi viện cho Phàn Thành, Tào Tháo đã quyết định xuất toàn lực, huy động viện binh tấn công Quan Vũ. Thống soái đội quân tiếp viện thứ hai không ai khác ngoài “bằng hữu" Từ Hoảng.
Thất bại của Quan Vũ ở Phàn Thành được ghi nhớ như một chiến tích của danh tướng Lữ Mông bên phía Đông Ngô. Nhưng theo các học giả Trung Quốc, trong suốt một giai đoạn của lịch sử, người đời sau chưa đánh giá đúng công lao của Từ Hoảng.
Quân tiếp viện do Từ Hoảng chỉ huy nhanh chóng áp sát vòng vây Phàn Thành của Quan Vũ. Bản thân Quan Vũ cũng có sự chuẩn bị kỹ lưỡng khi biết tin mình sắp phải đối đầu với Từ Hoảng. Quan Vũ cho "đào hào đắp lũy, nghiêm phòng tử thủ, nhiều lần dụ địch xâm nhập nhằm thừa thế công hạ Phàn Thành".
Vốn quen biết nhau khá rõ và có mối quan hệ tốt đẹp nhưng trong lần ra trận này, Từ Hoảng quyết đánh bại Quan Vũ.
Từ Hoảng biết rằng phần lớn lính của mình không phải là quân tinh nhuệ nên ông không giao chiến ngay mà lập trại đằng sau quân địch. Ông cho lính đào hầm xung quanh thành khác Nghiêm Thành, giả vờ như cắt đường vận lương của địch. Quan Vũ mắc mưu, rời bỏ vị trí, giúp Từ Hoảng từng bước giải vây Phàn Thành.
Trong trận đánh quyết định, Từ Hoảng cho quân đi đường nhỏ, tấn công chớp nhoáng ngay từ bên trong phòng tuyến của Thục Hán. Quan Vũ dẫn 5000 kị binh đẩy lùi quân Ngụy nhưng thất bại. Không những vậy, phần lớn quân sĩ của Quan Vũ đều chết đuối ở sông Hán Thủy.
Quan Vũ rút quân bỏ chạy thì gặp phải quân Đông Ngô chặn đường và cuối cùng chết thảm.
Kết thúc chiến dịch, Tào Tháo đã trực tiếp đến thị cục diện chiến trường và thừa nhận Quan Vũ bày thế trận hết sức vững nhắc. Tào Tháo cũng cảm thán trước chiến công kỳ tích của Từ Hoảng.
Khi Từ Hoảng dẫn quân về trại, đích thân Tào Tháo ra ngoài thành 7 dặm để đón tiếp Từ Hoảng. Thường thì quân của các tướng khác, vì muốn xem mặt Tào Tháo, nên đều mất hàng ngũ nhưng quân của Từ Hoảng vẫn hàng nào đội ấy, răm rắp một lượt.
Thấy điều này, Tào Tháo khen rằng: :"Từ tướng quân có phong thái của Chu Á Phu (nhà quân sự và thừa tướng nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, con trai Hán triều khai quốc công thần Chu Bột)".
Sau chiến dịch giải vây ở Phàn Thành, Tào Tháo không ngớt lời khen Từ Hoảng: "Ta dụng binh hơn 30 năm, chỉ nghe cổ nhân giỏi việc binh, chưa từng nghe nói đem quân lao thẳng vào vòng vây địch. Chiến công của tướng quân có thể sánh ngang Tôn Tử, Tư Mã Nhương Thư năm xưa".
Các học giả Trung Quốc sau này nhận định, Quan Vũ là người trọng tình cảm nghĩa khí, còn Từ Hoảng không vì tư giao với ông mà làm lỡ việc công.
Quan Vũ đại bại không chỉ vì những đồng minh như Mi Phương, Phó Sĩ Nhân hàng Đông Ngô mà chính Từ Hoảng là người trực tiếp phá thế trận. Nhắc tới "phá Quan (Vũ) đệ nhất công", không thể không ghi nhận chiến dịch phá vây hoàn hảo của Từ Hoảng.
Tam Quốc Chí của Trần Thọ nhắc đến danh tướng này: "Từ Hoảng là một trong 'ngũ tử lương tướng' của Thái tổ (Tào Tháo), tham gia nhiều chiến dịch trọng yếu, trí dũng song toàn, chiến công trác việt, trị quân có tài".
Sau khi Tào Tháo qua đời năm 220, Từ Hoảng tiếp tục được Tào Phi tin tưởng. Ông được phong làm "Hữu tướng quân" và "Dương Bình hầu". Khi Tào Duệ nối ngôi năm 227, Duệ cử Từ Hoảng đến bảo vệ Tương Dương khỏi quân Ngô nhưng ông mất cùng năm vì bệnh tật.
End of content
Không có tin nào tiếp theo