Điểm mặt các ông lớn vào VN phải cuốn gói vì thua lỗ
Tháng 7/2009, VimpelCom, nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động lớn tại Đông Âu và Trung Á kết hợp với Tổng công ty Viễn thông di động tòa cầu (Gtel) khai trương mạng di động mang thương hiệu Beeline tại Việt Nam. Khi đó, VimpelCom nắm giữ 40% cổ phần, tương đương khoản đầu tư 267 triệu USD.
Tháng 4/2011, VimpelCom đã đạt được thỏa thuận với Gtel về việc đầu tư thêm 500 triệu USD đến hết năm 2013. Khoản góp vốn đầu tiên trị giá 196 triệu USD nâng tỷ lệ sở hữu của cổ đông này từ 40% lên 49%. Số tiền còn lại trị giá 304 triệu USD sẽ được thực hiện trong bước tiếp theo và cổ phần của VimpelCom có thể tăng lên 65%.
Tuy nhiên, sau đúng một năm, VimpelCom quyết định "cuốn gói ra đi", bán toàn bộ khoản đầu tư trị giá gần 500 triệu USD với giá 45 triệu USD cho đối tác Việt Nam. Theo đó, thương hiệu Beeline cũng bị xóa sổ tại Việt Nam sau 6 tháng tới.
Trước khi quyết định bán tháo phần vốn góp của mình tại Việt Nam, Beeline gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển thuê bao mới, yếu thế trong cạnh tranh. Hiện tại, hãng này công bố đã phủ sóng ở 50 tỉnh, thành phố, nhưng ngay cả ở Hà Nội và TP HCM, chất lượng sóng thực tế cũng thua nhiều so với các mạng di động lớn. Trong khi đó hệ thống đại lý, thương hiệu, dịch vụ cũng hẹp hơn rất nhiều so với MobiFone, VinaPhone, Viettel.
Theo số liệu của Tập đoàn VimpelCom, năm 2011, doanh thu bình quân trên thuê bao một tháng (ARPU) của Beeline tại Việt Nam chỉ đạt 0,7 USD vào quý III và 0,9 USD quý IV, thấp nhất trong số các quốc gia VimpelCom đầu tư viễn thông di động.
Cùng thời điểm, tại Campuchia, ARPU của Beeline tương ứng là 2 USD và 3 USD, còn các thị trường khác đều cao hơn (ở Lào là 4,9 USD). Việt Nam và Campuchia là 2 thị trường VimpelCom bị lỗ, với tổng số tiền đến hết năm 2011 là 527 triệu USD.
Trong khi đó, với các mạng di động lớn tại Việt Nam, ARPU bình quân 2011 của Viettel là 4 USD, MobiFone khoảng 5 USD. Như vậy, con số ARPU chỉ 0,9 USD là quá thấp. Với các mạng lớn, nếu ARPU xuống dưới 2 USD thì họ cũng khó khăn, nói gì đến các mạng nhỏ, vì số lượng thuê bao ít mà chi phí trên mỗi thuê bao lớn hơn nhiều.
Điều này cộng với chênh lệch giá cước không đáng kể so với các ông lớn di động khiến sim Beeline kém sức hấp dẫn. Ngay tại Hà Nội và TP HCM, nhiều đại lý cũng hạn chế nhập sim Beeline vì hàng tồn đọng lâu. Một số gói cước khuyến mãi của Beeline cũng gặp phải rào cản pháp lý tại Việt Nam nên không được triển khai trọn vẹn.
Cũng liên quan tới thị trường viễn thông di động, VimpelCom không phải là đại gia nước ngoài duy nhất phải rút lui khỏi Việt Nam sau một vài năm đầu tư vì làm ăn thua lỗ.
Đầu năm 2010, SK Telecom, mạng di động lớn nhất Hàn Quốc với hơn 50% thị phần tại nước này, đối tác đầu tư kinh doanh mạng di động S-Fone tại Việt Nam cũng tuyên bố rút khỏi thị trường Việt Nam.
Đầu tư vào thị trường Việt Nam, ban đầu SK Telecom không chỉ nhìn thấy tiềm năng lớn với dân số đông (hơn 78 triệu người (vào thời điểm 2000), trẻ, năng động và kinh tế tăng trưởng với tốc độ ổn định, cao. Ngoài ra, SK Telecom nhắm tới các thị trường hải ngoại, trong đó có Việt Nam, nhằm tìm nguồn tăng trưởng doanh thu mới trong khi thị trường nội địa có dấu hiệu bão hòa.
Năm 2003, SK Telecom chính thức tham gia vào thị trường thông tin di động Việt Nam dưới hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) với Công ty Cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài gòn (SPT) trong dự án S-Fone (ra mắt 1/7/2003). Đây là bước ngoặt quan trọng của thị trường di động Việt Nam bởi trước khi có S-Fone, Việt Nam chỉ có hai mạng di động VinaPhone và MobiFone đều thuộc VNPT. S-Fone được kỳ vọng tận dụng được cơ hội là “động lực đầu tiên”.
Theo hợp đồng BCC, hình thức duy nhất cho phép nước ngoài tham gia vào thị trường thông tin di động Việt Nam lúc bấy giờ, SK Telecom chỉ tham gia với vai trò là bên đầu tư hạ tầng mạng, chuyển giao công nghệ, cung cấp thiết bị, tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật. Ngay từ đầu, SK Telecom đã cho biết BCC là mục tiêu tạm thời trong khi chờ Việt Nam gia nhập WTO, mở cửa thị trường viễn thông. Từ năm 2005, SK Telecom đã ngỏ ý chính thức về mong muốn được chuyển S-Fone thành liên doanh để SK Telecom có thể tham gia sâu hơn vào các quyết định quản lý, kinh doanh dịch vụ.
Tuy nhiên, các cuộc đàm phán chuyển đổi BCC của S-Fone bị sa lầy cho đến tận cuối tháng 12/2009 trong khi thị trường đã có thêm nhiều người chơi mới như Viettel, HT Mobile, cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Mặc dù S-Fone đem lại nhiều sự mới lạ và thậm chí đôi lúc là tiên phong trong cách tính cước (như block 6 giây), cung cấp dịch vụ thoại có hình (video call), Internet mobile, Mobile TV… nhưng S-Fone đã bị Viettel (mạng di động ra mắt sau S-Fone một năm) phủ bóng và hụt hơi trong cuộc chơi giảm cước như vũ bão của ba ‘đại gia’ GSM là MobiFone, VinaPhone và Viettel (gói cước Forever là một ví dụ điển hình – Gói cước Forever “không hết hạn gọi, còn mãi hạn nghe” được tung ra ngày 14/3/2006 và đến 10/10/2008, gói cước Forever Couple được điều chỉnh tăng 450% từ 40.000 đồng/tháng lên 180.000 đồng/tháng).
Sau nhiều năm chật vật tại thị trường Việt Nam, cuối cùng, vào cuối năm 2009, SK Telecom chính thức tuyên bố dừng đầu tư vào S-Fone. Đầu năm 2010, SK Telecom cho biết sẽ đóng cửa văn phòng Hà Nội. Văn phòng ở TP HCM được duy trì để giải quyết công việc tồn đọng.
Các chuyên gia viễn thông nhận định rằng, việc SK Telecom rút khỏi Việt Nam là hợp lý và cho rằng chiến lược đầu tư trực tiếp của SK Telecom ra nước ngoài là quá tham vọng khi hình ảnh của công ty còn yếu và cạnh tranh rất mạnh từ các đối thủ bản địa.
Lý do đã được nhìn thấy đối với thất bại của SK Telecom tại Việt Nam, như chính người phát ngôn của SK Telecom đã thừa nhận với phóng viên Korea Times là hiệu quả đầu tư thấp. Kỳ vọng S-Fone khai thác được tiềm năng thị trường đổ vỡ.
Hiệu quả S-Fone không được như mong đợi là điều đã được thấy trước. Trước hết là mô hình BCC khiến cho S-Fone không được linh hoạt trong kinh doanh: mọi quyết định phải được đàm phán và thông qua, chậm chạp trong mở rộng vùng phủ sóng. Năm 2007, SK Telecom tuyên bố đầu tư thêm 300 triệu USD cho S-Fone nhưng việc đầu tư này gặp nhiều khó khăn do có lo ngại thiếu tần số và việc thay đổi mô hình tổ chức mất nhiều thời gian.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi vẫn là việc công nghệ CDMA không phổ biến ở Việt Nam. Xét về công nghệ, trên lý thuyết, CDMA có nhiều ưu việt hơn so với công nghệ GSM về tốc độ truyền dữ liệu, chất lượng thoại, hiệu quả mạng lưới. Song CDMA không phổ biến ở Việt Nam so với GSM cũng như nhiều thị trường khác do điện thoại GSM cho phép người dùng cuối có nhiều lựa chọn hơn. Trong khi đó, S-Fone chỉ hầu như cung cấp được các loại điện thoại di động Hàn Quốc của hai hãng Samsung và LG.
Sự thất bại của mạng CDMA HT Mobile làm cho hình ảnh CDMA ở Việt Nam xấu hơn và không đem lại nhiều lợi ích cho S-Fone mặc dù S-Fone có được tất cả khách hàng HT Mobile chuyển sang (khoảng 200 nghìn thuê bao).
Không chỉ ngành viễn thông di động, nhiều ngành nghề khác như điện tử cũng chứng kiến không ít doanh nghiệp lớn của nước ngoài phải ngừng kinh doanh hoặc chuyển hướng làm ăn tại Việt Nam. Trường hợp rầm rộ nhất phải kể đến Sony.
Cuối năm 2008, công ty Sony đã chấm dứt hoạt động sản xuất tại Việt Nam. Thay vào đó, “đại gia” này phải thành lập công ty mới và chuyển hướng hoàn toàn sang nhập khẩu hàng thương mại để cung cấp cho người tiêu dùng Việt Nam.
Đại diện của Sony khi đó giải thích, lý do ngừng sản xuất là vì xu hướng hiện nay người tiêu dùng ưa chuộng sử dụng TV LCD thay vì dùng TV bóng đèn hình, và Sony đã quyết định ngừng sản xuất, kinh doanh mặt hàng TV bóng đèn hình ở hầu hết các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, những người am hiểu về đầu tư nước ngoài cũng như ngành công nghiệp điện tử đều hiểu, chuyện không đơn giản chỉ là như vậy.
Những ai đã từng hy vọng những đại gia của thế giới như Sony sẽ đến Việt Nam để rồi, sau khi khai thác lợi thế thị trường trong thời gian đầu, sẽ tiếp tục đầu tư những công nghệ mới và hiện đại nhất góp phần tạo dựng nền công nghiệp điện tử tiên tiến, giờ đây cần nghĩ lại. Đối với nhà đầu tư, lợi nhuận là lợi nhuận và đó là mục tiêu duy nhất. Khi kinh doanh thua lỗ hoặc lợi nhuận không đáng, họ sẽ phải tính cách rút lui hoặc chuyển hướng.
Một loạt các nhà đầu tư nước ngoài đã đến Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, khi mà ngành công nghiệp điện tử, được thuyết minh là một ngành công nghiệp mũi nhọn, có được một hàng rào bảo hộ vững chắc. Cho dù quy mô thị trường không lớn, nhưng với mức thuế nhập khẩu đối với sản phẩm nguyên chiếc vẫn được duy trì ở mức 50% cho tới năm 2003, sản xuất ngay tại Việt Nam vẫn là một phương án hiệu quả cao.
Cùng với Sony, Sanyo, Toshiba, Hitachi, Matsushita, JVC, LG và Samsung đều đã có mặt và nhanh chóng trở thành những trụ cột của thị trường.
Nhưng cũng từ năm 2003, các nhà sản xuất đều bắt đầu phải tính toán lại bài toán kinh doanh. Tháng 7/2003, thuế nhập khẩu đối với sản phẩm điện tử nguyên chiếc bắt đầu giảm theo các cam kết quốc tế và thay vì tiếp tục đầu tư, các nhà sản xuất bắt đầu sản xuất cầm chừng để chờ đợi. Các tính toán cho thấy khi quy mô thị trường quá nhỏ, việc duy trì cơ sở sản xuất không có lợi bằng việc nhập khẩu sản phẩm, khi mà thuế nhập khẩu giảm xuống.
Theo cam kết WTO, kể từ ngày 1/1/2008, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép nhập khẩu sản phẩm nguyên chiếc từ nước ngoài về phân phối tại Việt Nam. Thuế nhập khẩu hàng điện tử cũng chỉ còn từ 0-5% đối với hầu hết các mặt hàng. Trong khi đó, thuế đánh vào linh kiện vẫn cao và công nghiệp phụ trợ Việt Nam thì vẫn trong tình trạng “lẹt đẹt”, hầu như không có đóng góp đáng kể nào cho sản xuất. Vậy thì tại sao các doanh nghiệp điện tử như Sony lại phải tiếp tục sản xuất tại Việt Nam?
Bên cạnh các ngành trên, nhiều người cho rằng ô tô sẽ là ngành có không ít doanh nghiệp phải xin rút lui thời gian tới.
Việc chính sách thuế, phí đối với mặt hàng ô tô tại Việt Nam liên tục thay đổi theo chiều hướng tăng lên khiến người dân ngày càng chùn tay, và các doanh nghiệp rơi vào cảnh ế khách.
Trước đó, trong dự báo thị trường ô tô năm 2012, ông Tachibana, nguyên Tổng giám đốc Toyota Việt Nam cho rằng, năm 2012 sẽ là năm hết sức khó khăn đối với ngành sản xuất ô tô và thị trường trong nước. Ước tính doanh số của VAMA sẽ giảm 20%.
Theo nhận định của ông Tachibana, đến năm 2018, nhiều nhất sẽ chỉ còn 3 doanh nghiệp ô tô có vốn đầu tư nước ngoài trụ lại tại Việt Nam. Nhưng nhiều chuyên gia cho rằng 3 cũng là quá nhiều, có khi chẳng còn doanh nghiệp nào. Khi đó cũng giống như trong lĩnh vực điện tử, Sony rút khỏi Việt Nam, chỉ để lại một văn phòng đại diện và phân phối xe nhập khẩu.
Với thuế suất thuế nhập khẩu ô tô chỉ còn 50% vào 2014 và giảm tới 0 - 5% vào năm 2018, xe nhập khẩu nguyên chiếc có lợi thế hơn so với xe sản xuất trong nước là điều được các doanh nghiệp ô tô có vốn đầu tư nước ngoài nhận thấy.
Chủ tịch Ford tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và châu Phi, ông Joe Hinrichs cho biết, hãng đang xây dựng 7 cơ sở sản xuất mới tại châu Á. Tuy nhiên trong kế hoạch của Ford không có dự án nào tại Việt Nam.
GM Việt Nam, Honda Việt Nam, Suzukuki Việt Nam... cho biết không có kế hoạch đầu tư gì vào Việt Nam năm 2012.
Theo ĐV
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Xem nhiều nhất
Vàng vẫn là ‘chân ái', trở thành top 1 mặt hàng nên mua vào năm 2025
Công bố bộ quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp môi giới bất động sản
Đề xuất cho doanh nghiệp tự quyết giá xăng dầu có tỷ trọng tiêu thụ thấp
Vĩnh Phúc nỗ lực 'xanh' hoá để phát triển bền vững
Bất động sản miền Trung khởi sắc: Đà Nẵng, Quảng Bình dẫn đầu xu hướng tăng trưởng
Thủ tướng: Can thiệp vào hoạt động doanh nghiệp nhà nước sẽ làm méo mó thị trường, cản trở phát triển