Thị trường

FTA Việt Nam-EAEU: Để doanh nghiệp chủ động nắm bắt cơ hội

(DNVN) - "Để tận dụng tối đa những lợi thế mà Hiệp định mang lại, các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ các nội dung cụ thể của Hiệp định với từng dòng thuế của từng sản phẩm, đặc biệt, đối với ngành thủy sản, cần nghiên cứu quy định về quy tắc xuất xứ, các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng hàng hóa..."

Đó là thông điệp được ông Dương Hoàng Minh, Phó Vụ trưởng Vụ châu Âu, Bộ Công Thương đưa ra tại Tọa đàm “FTA Việt Nam - EAEU: Để doanh nghiệp chủ động nắm bắt cơ hội” do Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ tổ chức vừa qua.

Chia sẻ tại buổi tọa đàm, sau khi Hiệp định có hiệu lực sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội cho các DN Việt Nam xuất khẩu hàng hóa. Đặc biệt ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, các ngành thủy sản, dệt may, da giày… sẽ được cắt giảm thuế ngay tới gần 90%, trong đó có những dòng thuế được xóa bỏ hoàn toàn.

Quảng cảnh buổi tọa đàm.
Quảng cảnh buổi tọa đàm.

Tuy nhiên, ông vẫn cảnh báo các doanh nghiệp là những quy định mà EAEU đặt ra cho hàng nhập khẩu khá nghiêm ngặt. Ví dụ như với hàng thủy sản, do các nước trong khối kế thừa quy định của của Liên Bang Nga nên các tiêu chuẩn đặt ra có sự khác biệt. EAEU hiện chỉ chấp nhận một quốc gia có hệ thống quản lý chất lượng tương đương và các DN được cơ quan quản lý chấp thuận, thì mới đủ điều kiện xuất khẩu.

Tuy nhiên, hiện nay, EAEU chưa chấp nhận hệ thống tiêu chuẩn của nước ta, nên các DN xuất khẩu thủy sản hay nhiều mặt hàng nông sản, thực phẩm vẫn phải tuân thủ theo quy định của khối này.

"Một trong những yêu cầu mà EAEU đặt ra với hàng thủy sản, là phải đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ có nguồn gốc nội địa từ 40% trở lên. Hầu hết các sản phẩm thủy sản xuất khẩu đều đáp ứng tiêu chí này, song với mặt hàng tôm và cá ngừ thì đây lại là bài toán khó, khi bị phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Chưa kể, EAEU yêu cầu hàng hóa xuất khẩu sang không được quá cảnh ở nước thứ ba, hoặc không được chia nhỏ lô hàng, và áp dụng điều khoản tạm ngừng ưu đãi nếu phát hiện có gian lận về quy tắc xuất xứ hoặc vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm", ông Minh cho biết.

Chính vì thế, ông Minh cho rằng, để tận dụng tối đa những lợi thế mà Hiệp định mang lại, DN phải nghiên cứu kỹ các nội dung cụ thể của Hiệp định với từng dòng thuế của từng sản phẩm; đặc biệt, đối với ngành thủy sản, cần nghiên cứu quy định về quy tắc xuất xứ, các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng hàng hóa,...

Chia sẻ tại buổi Tọa đàm, ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản cho biết, những năm qua các DN Việt Nam luôn xác định Nga và các nước thuộc Liên minh kinh tế Á - Âu là thị trường tiềm năng, song tỷ lệ xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vẫn còn khá ít do gặp phải vướng mắc về kiểm soát, kiểm tra an toàn thực phẩm theo quy định của phía bạn.

 

"Mặc dù thời gian qua, nhiều DN đã nỗ lực cải thiện năng lực, đáp ứng yêu cầu của phía bạn hoặc liên tục có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp, song tỷ lệ DN được phía Nga chấp nhận đạt yêu cầu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với số lượng DN đã đăng ký tham gia xuất khẩu vào thị trường này", ông Nam nói.

Cũng theo ông Nam, theo quy định của Liên minh kinh tế Á – Âu, doanh nghiệp được cơ quan quản lý Nhà nước xác nhận đủ điều kiện xuất khẩu thì phía bạn sẽ chấp nhận doanh nghiệp ấy. Nhưng thực tế, doanh nghiệp Việt vẫn chưa được chấp nhận vì phía Liên minh kinh tế Á - Âu chưa tin tưởng vào hệ thống kiểm tra, kiểm dịch của Việt Nam. Tới đây, các nước thuộc Liên mình này sẽ kiểm tra lại hệ thống kiểm dịch của Việt Nam để đưa ra kết luận cuối cùng, nếu được chấp thuận, đây sẽ là tín hiệu mừng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.

Ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cũng chia sẻ những khó khăn, thuận lợi của ngành Thép khi FTA Việt Nam - EAEU có hiệu lực. 

Theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam có thể nhập khẩu những mặt hàng thép chất lượng cao với thuế suất nhập khẩu là 0%, từ đó sản xuất các sản phẩm thép trong nước có chất lượng, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. 

Bên cạnh đó, khó khăn cho ngành thép nước nhà là do đa phần các DN có quy mô nhỏ, chỉ vài trăm nghìn tấn/năm, do đó các DN này chịu nhiều áp lực khi tham gia đấu trường cạnh tranh, chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao, do đó khó được chấp nhận tại "cuộc chơi". 

 

Đại diện của VSA lo ngại rằng để thích ứng được thì DN ngành thép cần nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt là cải thiện biện pháp đổi mới công nghệ, khả năng quản trị, để giữ vững thị trường trong nước trước bối cảnh thép Nga có thể vào thị trường nội địa nhiều hơn.

"Trong bối cảnh tự do hoá thương mại, không còn con đường nào khác, DN phải cố gắng hết mình nâng cao khả năng cạnh tranh, trong đó tập trung vào vấn đề chất lượng, giá cả, thương hiệu và khả năng cung ứng, dịch vụ sau bán hàng. Để nâng cao tiêu chí này, DN thép phải có biện pháp đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ tiên tiến nhất, cho ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hợp lý và nâng cao quy mô. DN thép hiện chỉ có công suất vài trăm nghìn tấn nên chịu chi phí khấu hao lớn, giá thành không thể hạ thì không thể cạnh tranh được với DN thép của Nga có quy mô lớn lên tới 4 – 5 triệu tấn", ông Sưa đánh giá.

Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cũng kiến nghị, ngành thép cần được Nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện nhiều hơn nữa, đầu tư xây dựng những nhà máy có quy mô lớn hơn, công nghệ hiện đại hơn để thực sự sẵn sàng hòa nhập với thị trường thế giới.

Cũng tại buổi tọa đàm, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu Dương Hoàng Minh cho biết thêm, trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ phối hợp chặt chẽ với phía bạn để nắm bắt thông tin thị trường và hỗ trợ cho doanh nghiệp hai Bên. Đồng thời, Bộ Công Thương sẽ xây dựng đề án tuyên truyền thông tin về các Hiệp định thương mại, tập trung vào việc hướng dẫn, đào tạo cán bộ của doanh nghiệp nhằm tận dụng tối đa các ưu đãi mà Hiệp định mang lại.

LANH CHANH
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo