Thị trường

Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài: Dễ quản - khó kiểm!

Từ 1/1/2015, bộ cơ sở dữ liệu về đầu tư nước ngoài sẽ bắt đầu được tạo lập tại 14 tỉnh, TP trên cả nước. Đây là công cụ hỗ trợ quan trọng cho cả cơ quan quản lý nhà nước và các nhà đầu tư trong hoạch định kế hoạch. Tuy nhiên, việc kiểm tra, rà soát cập nhật lại cơ sở dữ liệu cũ với khoảng hơn 20.000 dự án FDI (kể cả dự án đã hết hạn, giải thể) sẽ không phải đơn giản, cần rất nhiều thời gian.

Một trong số các chức năng của Hệ thống Thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài là quản lý các dự án đầu tư nước ngoài tại VN. Hệ thống sẽ quản lý danh mục các dự án kêu gọi đầu tư tại Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và 3 trung tâm xúc tiến đầu tư thuộc Cục Đầu tư nước ngoài; tại các Sở Kế hoạch và Đầu tư; tại các Ban quản lý Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao và Khu kinh tế. Kho dữ liệu hơn 20.000 dự án FDI hiện tại cũng sẽ được cập nhật dần trên Hệ thống này.

 
Một đầu mối
 
Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài là bước đi quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống nhằm chuẩn hóa và tin học hóa các nghiệp vụ quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đồng thời thiết lập một kho dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp và dự án FDI, thiết lập hệ thống thu thập, cập nhật thông tin về hoạt động FDI trên phạm vi toàn quốc. Hệ thống là công cụ hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các nghiệp vụ quản lý đầu tư nước ngoài từ khâu tiếp nhận, xử lý hồ sơ, trả hồ sơ, tổng hợp báo cáo và thống kê quản lý thông tin dự án. Cho phép các đầu mối quản lý FDI: Cập nhật dữ liệu về đăng ký, cấp/điều chỉnh/thu hồi GCNĐT hoặc các giấy phép/văn bản pháp lý có giá trị tương đương thuận tiện; nhận, quản lý các loại báo cáo và cập nhật dữ liệu từ các loại Báo cáo vào cơ sở dữ liệu một cách thuận tiện; tra cứu mọi thông tin có trong cơ sở dữ liệu đối với dự án đầu tư thuộc phạm vi quản lý của mình; tổng hợp, phân tích và lập các loại báo cáo theo yêu cầu của người sử dụng tại các đầu mối quản lý FDI, gồm các loại báo cáo theo mẫu chung hoặc riêng về dự án thuộc phạm vi quản lý.
 
Điểm đáng chú ý của Hệ thống là sẽ hỗ trợ nhà đầu tư nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư thông qua chức năng khai báo hồ sơ online. Đồng thời, hỗ trợ DN FDI thực hiện việc báo cáo online thông qua Hệ thống. Hoạt động này sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí cho các cơ quan quản lý, DN, góp phần cải cách hành chính, tạo cơ chế thông thoáng cho nhà đầu tư.
 
Ngoài ra, người dùng có thể tra cứu thông tin có trong cơ sở dữ liệu được phép công khai hóa theo quy định, thông qua Cổng thông tin điện tử đầu tư nước ngoài; đảm bảo các dữ liệu này được để ở dạng chuẩn cho phép trao đổi dữ liệu như webservice, xml,… với các hệ thống ứng dụng khác.
 
Khó kiểm
 
Với rất nhiều tiện ích, Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài được coi là một bước đột phá trong cải cách hành chính, tuy nhiên để xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin tốt, đủ tin cậy và chính xác phụ thuộc rất nhiều vào chất lương thông tin cũng như những người xử lý vận hành hệ thống này.
 
Thực tế cho thấy, kết quả báo cáo về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài  đến hết tháng 11/2014, dù Cục Đầu tư nước ngoài nhận đủ báo cáo từ 63 tỉnh, TP, nhưng chất lượng rất khác nhau. Với chất lượng thông tin đầu vào không thống nhất rất khó để đánh giá thực trạng về hoạt động FDI và sẽ thiếu cơ sở để hoạch định, điều chỉnh chính sách.
 
Một khảo sát năm 2012 đã từng chỉ ra tình  trạng “3 không” trong quản lý DN sau đăng ký đối với khu vực FDI, đó là cơ quan quản lý không biết rõ chủ đầu tư, không biết địa điểm đầu tư và không biết DN hoạt động như thế nào. Chính vì vậy, trước mắt việc rà soát, cập nhật lại cơ sở dữ liệu cũ với khoảng hơn 20.000 dự án FDI (kể cả dự án đã hết hạn, giải thể) vào hệ thống là một vấn đề khó khăn. Bởi thông tin về các dự án này được cập nhật từ lâu và thiếu nhiều thông tin so với cấu trúc cơ sở dữ liệu hiện tại của hệ thống.
 
Để khắc phục được tình trạng trên và đồng bộ hóa cơ sở dữ liệu chắc chắn sẽ mất khá nhiều thời gian.
 
Bên cạnh đó phải kể đến những khó khăn trong việc triển khai đào đạo bộ máy cán bộ vận hành hệ thống cũng như hướng dẫn cho người sử dụng tiếp cận và khai thác được tối đa hiệu quả thông tin của hệ thống mang lại.
 
Mặc dù Hệ thống Thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài góp phần tạo bước cải cách tổng thể về hệ thống pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài,  minh bạch môi trường đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác hậu kiểm. Đặc biệt góp phần triển khai một cách đồng bộ, hiệu quả với Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và Luật Đầu tư (sửa đổi) tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, nỗ lực thực hiện nâng chất lượng dòng vốn FDI tại VN  nhưng rõ ràng công tác kiểm tra cơ sở dữ liệu để đảm bảo tính minh bạch chính xác vẫn là một thách thức.
Theo DDDN
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo