Thị trường

Giá nông sản ngày 17/1/2024: Cà phê và hồ tiêu tiếp tục tăng

Ghi nhận giá nông sản ngày 17/1, mặt hàng cà phê và hồ tiêu tiếp tục tăng so với hôm qua.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Việt Nam khuyến khích Indonesia đầu tư vào các ngành kinh tế mới nổi / Thủ tướng Chính phủ: Dứt khoát không để thiếu điện trong bất cứ hoàn cảnh nào

Giá nông sản ngày 17/1: Cà phê tiếp tục tăng

Cụ thể, tại huyện Di Linh (Lâm Đồng) giá cà phê được thu mua với mức 70.900 đồng/kg. Tại Bảo Lộc (Lâm Đồng), Lâm Hà (Lâm Đồng) giá cà phê ở mức 70.800 đồng/kg.

Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 71.400 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 71.300 đồng/kg.

Tại Pleiku (Gia Lai), La Grai (Gia Lai), giá cà phê hôm nay đang ở mức 71.400 đồng/kg. Còn tại huyện Chư Prông (Gia Lai) được thu mua với mức thấp hơn 71.300 đồng/kg.

Tại Gia Nghĩa và Đắk R'lấp (Đắk Nông), giá cà phê lần lượt đạt mức 71.500 đồng/kg, 71.400 đồng/kg.

Tại tỉnh Kon Tum giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 71.400 đồng/kg.

Như vậy, giá cà phê hôm nay đang dao động trong khoảng từ 70.800 - 71.500 đồng/kg.

Giá nông sản ngày 17/1/2024: Cà phê và hồ tiêu tiếp tục tăng

Ảnh minh họa. Ảnh: Trang Huỳnh

Niên vụ cà phê 2023-2024, người trồng cà phê tại Tây Nguyên rất phấn khởi vì cà phê được mùa, được giá. Mặc dù giá cà phê liên tục lập đỉnh nhưng cho đến thời điểm hiện tại, hầu hết nông dân không còn cà phê để bán vì vụ thu hoạch cà phê cơ bản đã kết thúc và người dân đã chốt bán trước đó cho các doanh nghiệp, thương lái thu mua cà phê.

Giá nông sản ngày 17/1: Hồ tiêu tiếp tục tăng 500 đồng/kg

Cụ thể, tại tỉnh Đắk Lắk - Đắk Nông giá tiêu hôm nay ở mức 81.500 đồng/kg.

Tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giá tiêu hôm nay đạt mức 80.500 đồng/kg.

Trong khi đó, tại tỉnh Bình Phước giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 81.000 đồng/kg.

 

Tại Đồng Nai, giá tiêu hôm nay ở mức 79.000 đồng/kg.

Còn tại tỉnh Gia Lai giá tiêu hôm nay đạt mức 78.500 đồng/kg.

Như vậy, giá hồ tiêu toàn miền hôm nay dao động trong khoảng 78.500 - 81.500 đồng/kg.

Theo phnompenhpost, năm 2023, Campuchia đã xuất khẩu hơn 6.000 tấn hạt tiêu sang thị trường quốc tế, giảm gần 27% so với năm trước. Những người trong ngành cho rằng nguyên nhân của sự sụt giảm này xuất phát từ việc nông dân và một số người trồng tiêu không muốn bán sản phẩm của mình vì giá thấp.

Báo cáo thường niên năm 2023 của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản cho thấy, tổng xuất khẩu nông sản của cả nước lên tới hơn 8,4 triệu tấn, giảm 1,9% so với năm 2022. Trong đó, xuất khẩu hạt tiêu đạt 6.153 tấn, giảm 26,76%.

 

Ông Mak Ny, chủ tịch Liên đoàn Hạt tiêu và Gia vị Campuchia (CPSF), giải thích với The Phnom Penh Post vào hôm 10/1 rằng, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến đơn đặt hàng từ hầu hết các thị trường quốc tế giảm, bao gồm cả các sản phẩm hạt tiêu.

Theo chủ tịch Liên đoàn Hạt tiêu và Gia vị Campuchia, sự sụt giảm trong xuất khẩu là do giá sản phẩm trên thị trường quốc tế thấp hơn.

Ông cũng lưu ý rằng, việc giảm giá này khiến một số người trồng phải giữ lại sản phẩm của mình để đề phòng giá tăng, do đó ảnh hưởng đến việc thu mua của thương nhân để xuất khẩu.

Vào năm 2023, giá trung bình của hạt tiêu thông thường là khoảng 12.000 riel (2,93 USD)/kg, giảm so với mức khoảng 14.000 riel (3,42 USD) vào năm 2022. Tuy nhiên, đến cuối năm 2023, giá hạt tiêu tăng dần tại thị trường Campuchia.

Ông Mak Ny chia sẻ: “Việc giảm xuất khẩu không phải do sản lượng hạt tiêu giảm mà do giá mà các thương nhân đưa ra thấp hơn so với năm 2022. Trong năm 2024, chúng tôi hy vọng rằng giá hạt tiêu trên thị trường quốc tế sẽ phục hồi, dẫn đến mức tăng đáng kể. trong xuất khẩu”.

 

Ngoài ra, ông cũng cho biết thêm, Việt Nam là nước tiêu thụ hạt tiêu Campuchia lớn nhất hàng năm, chiếm hơn 80% tổng lượng hạt tiêu xuất khẩu của Campuchia, không bao gồm sản phẩm hạt tiêu có Chỉ dẫn địa lý (GI) Kampot-Kep.

Vào đầu năm 2023, nhìn chung, cả nước Campuchia sản xuất từ ​​17.000 đến 20.000 tấn tiêu hàng năm trên gần 7.000ha. Tuy nhiên, sản lượng hồ tiêu trong thời gian gần đây đã giảm khoảng 10% đến 20%.

Ông cho rằng, việc trồng tiêu chủ yếu phục vụ nhu cầu xuất khẩu, tiêu thụ trong nước chỉ chiếm 5-7% mỗi năm.

Song song đó, ông Nguon Lay, chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến Hạt tiêu Kampot (KPPA), lưu ý rằng, trong khi xuất khẩu hạt tiêu thường xuyên giảm, xuất khẩu hạt tiêu Kampot, một nhãn hiệu GI, vẫn ổn định ở mức khoảng 100 tấn mỗi năm.

Ông Nguon Lay lý giải, hạt tiêu của tỉnh duy trì được thị trường là nhờ chất lượng đạt tiêu chuẩn và có chứng nhận chất lượng rõ ràng từ cơ quan chức năng. Hầu hết hạt tiêu Kampot đều được các nhà xuất khẩu ký hợp đồng trước trước vụ thu hoạch hàng năm.

 

Chủ tịch Hiệp hội KPPA cho biết: “Dữ liệu cho thấy sự sụt giảm xuất khẩu hạt tiêu vào năm 2023 chỉ đề cập đến hạt tiêu thông thường, trong khi xuất khẩu hạt tiêu Kampot vẫn tiếp tục như thường lệ”.

Theo ông Nguon Lay, giá tiêu GI-Kampot không đổi kể từ năm 2015, với mức giá hiện tại là 15 USD/kg đối với tiêu đen, 25 USD/kg đối với tiêu đỏ và 28 USD/kg đối với tiêu trắng. Ngoài ra, sản lượng tiêu Kampot hàng năm ước tính khoảng 100 tấn.

Ông cũng đề cập, với điều kiện thời tiết thuận lợi, 1 ha đất trồng khoảng 2.500 cây có thể cho năng suất khoảng 1.500 kg tiêu Kampot mỗi năm.

Bộ báo cáo rằng mặt hàng này được trồng ở 18 tỉnh, trong đó Mondulkiri, Ratanakkiri, Tbong Khmum và Kampot là những tỉnh trồng tiêu hàng đầu.

Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan và Thuế tiêu thụ đặc biệt (GDCE), Campuchia xuất khẩu hạt tiêu sang nhiều thị trường khác nhau bao gồm Việt Nam, Đức, Thái Lan, Pháp, Ấn Độ, Bỉ, Đài Loan, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và Singapore.

 

 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm