Bí mật 'áo giáp' của Không quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
SAM-2 tham chiến
Đầu năm 1965, tình báo Mỹ xác nhận sự xuất hiện của tên lửa phòng không S-75 Dvina (SAM-2) ở miền Bắc Việt Nam. S-75 là tổ hợp tên lửa phòng không tầm cao do Liên Xô sản xuất và đưa vào hoạt động từ năm 1957. Tên lửa có thể bắn hạ mục tiêu ở cự ly 34 km, tầm cao tối đa 25 km.
Ngày 24/7/1965, một chiếc F-4C bị bắn rơi nhưng Mỹ không quan tâm đến vũ khí bắn hạ đó. Hai ngày sau, một máy bay trinh sát không người lái BQM-34A bị bắn hạ khi đang hoạt động ở độ cao 20 km. Lúc này, giới quân sự Mỹ mới giật mình nhận ra, họ đang đối mặt với cuộc chiến mới - cuộc chiến với tên lửa phòng không.
Sau khi kết thúc cuộc tập trận "Tấn công sa mạc" năm 1964, giới lãnh đạo quân sự Mỹ từng nhận định: "Máy bay chiến thuật không thể tồn tại trong môi trường tên lửa phòng không". Năm 1965, thực tế chiến trường Việt Nam đã chứng minh tính xác thực của cảnh báo.
Sự tham chiến của tổ hợp S-75 kết hợp với lưới lửa cao xạ phòng không khiến Không quân Mỹ thiệt hại nặng. Các chỉ huy Mỹ thay đổi chiến thuật không chiến, chuyển sang sử dụng các tốp nhỏ lẻ, đánh nhanh, rút nhanh chứ không kéo vào đông, đánh ồ ạt như trước.
Áo giáp điện tử
Trong cuốn "Không chiến trên bầu trời Bắc Việt", tác giả Marshall Michel từng nhận xét, việc buộc phải thay đổi chiến thuật khi đối đầu với SAM-2 là thước đo mức độ hiệu quả của tổ hợp tên lửa này.
Theo Ausairpower, giới tình báo quân sự Mỹ gấp rút nghiên cứu đặc tính kỹ, chiến thuật của tổ hợp S-75. Họ nhận thấy rằng, radar cảnh giới và radar điều khiển hỏa lực SNR-75 Fan Song của tổ hợp dễ tổn thương trong môi trường tác chiến điện tử.
Ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ lao vào phát triển các phương tiện chế áp phòng không. Đặc biệt là các phương tiện tác chiến điện tử nhằm vô hiệu hóa "mắt thần" của SAM-2.
Để phục vụ nhiệm vụ mới, Mỹ đã sửa đổi máy bay ném bom B-66 thành máy bay tác chiến điện tử EB-66. Phi cơ này có nhiệm vụ gây nhiễu hệ thống radar cảnh giới, radar điều khiển hỏa lực của tổ hợp SAM-2. Trong môi trường bị gây nhiễu, radar rất khó phát hiện, nhận dạng và tấn công mục tiêu.
Trước mỗi trận không kích 5 phút, EB-66 tích cực phát sóng chế áp, tạo lớp áo giáp điện tử che phủ cho các tốp máy bay chiến đấu đánh phá mục tiêu. Thủ đoạn gây nhiễu này của Không quân Mỹ được gọi là nhiễu ngoài đội hình hay gây nhiễu yểm trợ từ xa.
Tuy nhiên, hiệu quả nhiễu ngoài đội hình không cao như giới quân sự Mỹ nhận định. Số lượng máy bay bị lực lượng phòng không Việt Nam bắn rơi không hề giảm, thậm chí còn tăng lên. Các phân tích của Không quân Mỹ cho kết quả, gây nhiễu ngoài đội hình chỉ có tác dụng trong hướng bay của EB-66.
Trong khi đó, máy bay chiến đấu phải liên tục cơ động để tránh hỏa lực phòng không mặt đất. Khi đội hình đã vào khu vực chiến đấu, tấm áo giáp điện tử gần như mất tác dụng. Người Mỹ đã có câu trả lời cho hiệu quả của tác chiến điện tử ngoài đội hình.
Từ năm 1966, Mỹ áp dụng chiến thuật cho EB-66 bay cùng các máy bay chiến đấu để gây nhiễu trong đội hình. Ngoài ra, Mỹ còn phát triển máy gây nhiễu QRC-160 treo dưới cánh cho phép máy bay mang nó có khả năng tự gây nhiễu. Đến khi kết thúc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất vào tháng 11/1968, 100% máy bay chiến đấu của Mỹ được trang bị QRC-160.
Trong vòng 20 tháng kể từ lần đầu tham chiến với tổ hợp tên lửa phòng không S-75 Dvina, trình độ tác chiến điện tử của Mỹ có những bước phát triển. "Bộ áo giáp điện tử" của các lực lượng tiến công đường không của Mỹ ngày một dày dặn, chắc chắn.
Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Mario De Arcangelis, đã gọi thời kỳ Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ở Việt Nam là giai đoạn bùng nổ của tác chiến điện tử.
End of content
Không có tin nào tiếp theo