Quốc tế

Quyền lực vô hạn

Chủ nghĩa ngoại lệ xe một sợi tơ hồng ngũ sắc cho giới trùm doanh nhân với giới chính trị gia trong xã hội Mỹ.

 

Một bên vốn có quá nhiều tiền nhưng vẫn chưa thỏa mãn; còn một bên lại cần nhiều tiền hơn nữa để tranh cử. Thế là không có sức mạnh nào có thể ngăn cản được cuộc hôn nhân vô tiền khoáng hậu của họ. “Con cái” của họ là những “bọc tiền” để mua phiếu bầu cùng những món hời lại quả. Còn đại đa số dân chúng thì... hãy đợi đấy!


Buôn chính trị
 

Ở phương Đông, Lã Bất Vi thời Chiến Quốc nổi tiếng với thuật “buôn vua”. Khi trông thấy Tử Sở đang làm con tin của nước Tần ở nước Triệu, Lã Bất Vi thốt lên: “Món hàng này lạ, có thể buôn được đây!”.


Nhờ vào mưu lược “rải vàng lót ổ” của ông, sau này Tử Sở trở thành vua nước Tần (Trang Tương Vương), còn Lã Bất Vi được trả ơn bằng chức Thừa tướng và được sắc phong là Văn Tín Hầu, được ăn thuế mười vạn hộ ở Hà Nam, Lạc Dương. Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất. Thái tử là Chính lên ngôi, gọi là Tần vương Chính - tức Tần Thủy Hoàng sau này, tôn Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ.
 

Còn ở phương Tây, đầu tư vào các cuộc tranh cử cũng không phải là chuyện lạ. Thuận mua vừa bán vốn là lẽ thường tình của các nền kinh tế thị trường. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, nên trên sân khấu chính trị cũng khó có thể khoanh ra một vùng “cấm mua, không bán”, nhất là ở xã hội tự do Mỹ - nơi mà tranh cử Tổng thống phải cần rất nhiều tiền, còn trên thương trường lại cũng không thiếu những tỷ phú, triệu phú đang muốn đầu tư chính trị để thu nhiều tiền hơn, đặc biệt là giới dầu lửa và công nghiệp quốc phòng.


Trong chiến dịch tranh cử năm 2000, các công ty dầu lửa và khí đốt đóng góp 34 triệu USD. 79% số này được rót cho đảng Cộng hòa, 20% cho đảng Dân chủ. Các công ty của Tobacco ủng hộ 8 triệu USD, trong đó 84% - đảng Công hòa, phần còn lại - đảng Dân chủ…
 

Còn trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2004, tính tới 31/01/2004, gần một nửa những nhà tài trợ nhiều nhất cho ứng cử viên đảng Dân chủ John Kerry chuyển hướng đầu tư sang chi cho đương kim Tổng thống G.W.Bush nhiều hơn cho J.Kerry.

Chẳng hạn, Kerry chỉ nhận được 79.000 USD từ Citigroup nhưng công ty này lại “cống nạp” cho G.W.Bush tới 187.000 USD. Goldman Sachs chỉ chi cho Kerry 65.000 USD so với 283.000 USD tài trợ cho G.W.Bush. Massachusetts Mutual - nhà tài trợ lớn nhất của Kerry trong 15 năm qua cũng thay đổi tỷ lệ đầu tư: Kerry - 50.000 USD, G.W.Bush - 69.000 USD.
 

Ở chặng nước rút trong cuộc đua tranh vào ghế Tổng thống năm 2008, B.Obama là ứng viên Tổng thống đầu tiên trong suốt 16 năm qua chi 30 triệu USD để mua lại 30 phút trong giờ phát sóng vàng của bốn kênh truyền hình lớn nhất nước Mỹ là NBC, CBS, FOX Univision để đưa ra lời “tuyên chiến cuối cùng”.


Riêng CNN từ chối vì không muốn thay đổi lịch phát sóng, chứ không thì con số sẽ còn lớn hơn nhiều. “Top ten” trong các nhà tài trợ là ĐH Tổng hợp California -1.648.685 USD, Goldman Sachs - 1.013.091 USD, ĐH Tổng hợp Harvard - 878.164 USD, Microsft Corp - 852.167 USD, Google Inc - 814.540 USD, JPMorgan Chase & Co - 808.799 USD, Citigroup Inc -736.771 USD, Time Warner - 624.618 USD, Sidley Austin LLP - 600.298 USD, ĐH Tổng hợp Stanford - 595.716 USD...
 

Về hình thức, hệ thống chính trị Mỹ có chủ nghĩa nghiệp đoàn hai đảng. Nhưng trên thực tế, đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa dường như cũng chỉ là hai cánh tả và hữu của “đảng người giàu” ở Mỹ.

Thực tế cho thấy các nhà đầu tư “khủng long”, chứ không phải là các cử tri quyết định các chiến dịch vận động tranh cử và các cuộc bầu cử. Đầu tư vào các đảng chính trị và các ứng cử viên của họ có thể làm thay đổi chương trình nghị sự của đảng và hình thành chính sách công theo hướng mang lại lợi riêng cho chủ đầu tư.

Các ứng cử viên đua tranh với nhau trước hết không phải vì các lá phiếu mà vì tiền của các nhà tài trợ, vì càng có nhiều tiền thì sẽ càng mua được nhiều phiếu. Trong cuộc tranh cử năm 2008, B.Obama thắng vì tăng gần như gấp đôi số tiền so với đối thủ John McCain.
 

Xã hội Mỹ là xã hội của những nhóm lợi ích. Một mô hình nhóm lợi ích đặc biệt hiện đang phát triển cả về số lượng và ảnh hưởng trong những năm gần đây là loại hình ủy ban hành động chính trị (political action committee - PAC). Đó là những nhóm độc lập, được tổ chức nhằm phục vụ một hoặc nhiều mục tiêu như đóng góp tài chính cho các chiến dịch bầu cử Quốc hội hoặc Tổng thống.


Luật pháp hạn chế số tiền đóng góp trực tiếp cho các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử liên bang nhưng không hạn chế số tiền các ủy ban hoạt động chính trị chi tiêu cho việc cổ xuý một quan điểm chính trị hoặc vận động bầu các ứng cử viên vào các chức vụ dân cử. Hiện con số các uỷ ban này ở Mỹ lên đến hàng nghìn. Chúng trở thành những “ông tơ”, “bà nguyệt” rất mát tay cả cho giới doanh nhân và các chính trị gia.
 

Lãi bất ngờ!

 

Trong “Đông Chu Liệt Quốc”, có một cuộc đàm đạo của Lã Bất Vi với cha - vốn cũng là một nhà buôn lớn, về lợi nhuận: “Cày ruộng lợi gấp mấy? - Lợi gấp mười. “Buôn châu ngọc lợi gấp mấy? - Lợi gấp trăm”. “Nếu giúp cho một người được lên làm vua, thống trị sơn hà, thì lợi gấp mấy?” Có thể coi đây là một câu chuyện kinh điển trong đầu tư chính trị.


Cũng như các loại hình đầu tư khác trong thương trường, đầu tư chính trị cũng có rủi ro, đặc biệt là đầu tư trong bầu cử Tổng thống ở Mỹ vì ứng cử viên có hai nhưng chỉ được chọn một Tổng thống. Thành ra là chiến cuộc đầu tư này cũng gần giống như trò trơi “zero sum game” (được ăn cả ngã về không). Nhưng được là thắng rất đậm.
 

Để đền đáp các nhà tài trợ trong giới công nghiệp quốc phòng, ngay trong tháng đầu nắm quyền, Tổng thống G.W.Bush đề bạt 32 giám đốc điều hành và những cổ Đông chính của các chủ hợp đồng vũ khí vào các vị trí hàng đầu trong hoạch định chính sách của Bộ Quốc phòng, Hội đồng An ninh Quốc gia, Bộ Năng lượng và Phủ Tổng thống.


Đồng thời, Tổng thống G.W.Bush còn chỉ định Phó Tổng thống Dick Cheney lãnh đạo nhóm hoạch định chính sách năng lượng. Nhóm này dựa vào các kiến nghị của các “khủng long” dầu lửa như Exxon Mobil, Conoco, Shell Oil, BP America và Chevron để bí mật bàn các diệu kế “trả nợ” các nhà tài trợ dầu lửa.


Từ 1998 tới 2005, riêng Exxon Mobil chi gần 67 triệu USD cho vận động bầu cử của G.W.Bush và loby các hợp đồng. Dưới thời G.W.Bush & Dick Cheney, riêng ngành công nghiệp dầu lửa và khí đốt chi 393,2 triệu USD để loby Chính phủ Liên bang, đó là chưa kể các khoản ủng hộ vận động tranh cử.

Năm 2005, Tổng thống G.W.Bush ký một đạo luật dầu lửa cho phép giãn 14,5 tỷ USD tiền thuế cho các công ty dầu lửa, khí đốt, điện hạt nhân và than. Ngoài ra, còn có những chính sách hỗ trợ hậu hĩnh khác. Nhờ vậy, lợi nhuận năm 2006 của Exxon Mobil đạt đỉnh cao nhất nước Mỹ là 39,5 tỷ USD.
 

Trong bốn năm từ 2000 đến 2003, Lockheed Martin - một “ông trùm” trong ngành công nghiệp quốc phòng nhận được từ Lầu năm góc những hợp đồng với tổng trị giá 78,7 tỷ USD so với tổng các khoản tiền tài trợ tranh cử và loby hợp đồng chỉ mất khoảng 7 triệu USD. Con số tương tự của Boeng Company là 59,2 tỷ USD so với khoảng 5 triệu USD chi phí; Northrop Grumman - 28,1 tỷ USD so với khoảng 3 triệu USD cống nạp; Raytheon Company - 26,8 tỷ USD so với khoảng 2,5 triệu USD tài trợ.
 

Điều chưa may cho các nhà tài trợ ruột của B.Obama khi ông bước lên ngai vàng là nước Mỹ bắt đầu lâm vào khủng hoảng tài chính. Nhưng “gái có công thì chồng đâu có phụ”. Tuy Tổng thống B.Obama chưa có cơ hội để ra một chỉ dụ đền đáp ơn sâu đối với các nhà đầu tư chính trị cánh hẩu như người tiền nhiệm làm nhưng ông cũng có cách khác.

Trong số các ngân hàng được nhận hàng chục triệu USD từ gói cứu trợ của Chính phủ ngay khi bắt đầu suy thoái kinh tế có ba “trùm” trong giới tài chính-ngân hàng là Goldman Sachs, JPMorgan Chase và Citigroup. Đây là ba trong 10 nhà tài trợ hàng đầu của B.Obama trong chiến dịch tranh cử năm 2008.
 

…Chờ mỏi mắt!

 

Khẩu hiệu tranh cử của ông B.Obama là thay đổi (change) và thay đổi lớn nhất diễn ra ngay trong thời gian vận động tranh cử Tổng thống là tăng số tiền chi tiêu. Con số đó năm 1996 mới là 478 triệu USD, năm 2000 - 649,5 triệu USD, năm 2004 - 1.016,5 triệu USD, còn năm 2008 - khoảng 2.400 triệu USD. Thay đổi lớn thứ 2 là nghịch cảnh “một và chín chín” dẫn tới phong trào “Hãy chiếm lấy phố Wall”. Tuy nhiên, nghịch cảnh này là căn bệnh hệ thống và ngày càng trầm kha do hệ quả từ những bất cập trong chính sách cả về đối ngoại và đối nội trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống G.W.Bush.
 

Những cuộc “đi đêm” giữa giới doanh nhân với giới chính trị Mỹ làm cho kẻ giàu thì lại càng giàu thêm và người nghèo thì lại càng bần cùng hơn. Khủng khiếp hơn nữa là còn đẩy đất nước phải dính líu vào chiến tranh. Đằng sau hai cuộc chiến hao người, tốn của mà Chính quyền G.W.Bush tiến hành ở Afghanistan và Iraq nhân danh lợi ích quốc gia, có thể thấy rõ bàn tay uốn éo đưa đẩy của giới trùm buôn bán vũ khí và dầu lửa ở Mỹ. Lợi ích quốc gia vẫn chỉ là một phạm trù trừu tượng. Cần phải làm rõ hơn: đó là lợi ích của ai và vì ai trên thực tế.
 

Khi G.W.Bush rời Nhà trắng thì những thành quả kinh tế của Chính quyền B.Clinton vun đắp trong hai nhiệm kỳ cũng “cuốn theo chiều gió”. Điều gì phải đến thì đến. Khủng hoảng tài chính bùng phát và Tổng thống B.Obama đành phải “đổ vỏ”. Tuy nhiên, cái “hộp đen” ma quái của nền kinh tế Mỹ không chiều những ý tưởng tốt đẹp của ông B.Obama.


Trong khi nạn thất nghiệp tăng tới gần 10% và Chính phủ Mỹ phải tung hàng trăm tỷ USD để cứu các ngân hàng khỏi bờ vực phá sản, thì lương thưởng của các giám đốc điều hành (CEO) trên Phố Wall lại cao ngất ngưởng. Tháng 3/2009, dư luận Mỹ sôi lên khi hay tin 165 triệu USD được Tập đoàn Bảo hiểm AIG thưởng cho nhân viên làm việc ở bộ phận sản phẩm tài chính.


Một báo cáo của Viện Nghiên cứu chính sách (IPS) Mỹ cho biết, chỉ hơn một năm sau sự sụp đổ của hệ thống tài chính Mỹ, tiền lương của các CEO ở phố Wall bắt đầu tăng trở lại mức trước khủng hoảng. Chênh lệch tiền lương giữa một CEO được trả thưởng cao và một công nhân bình thường ở Mỹ đang ở mức gần như cao nhất từ trước đến nay: 319/1 USD.

Theo báo cáo này, 100 công nhân bình thường ở Mỹ có thu nhập 18,08 USD/giờ (31.589 USD/năm) sẽ phải lao động quần quật 1.000 năm mới kiếm được hàng tỷ USD như các CEO được thưởng lớn. Hạ nghị sỹ đảng Dân chủ J. Groven tuyên bố: “Việc trả thưởng cho các nhà quản lý ngân hàng vượt quá ngưỡng kiểm soát. Họ ngồi trên đống tiền, trong khi nhiều người dân Mỹ vẫn phải vật lộn để có việc làm và không bị mất nhà ở”.
 

Năm 1995, Thomas Feguson trình làng cuốn “Nguyên tắc Vàng: Thuyết đầu tư trong cạnh tranh đảng phái và logic của các hệ thống chính trị đua tranh bằng tiền” (Golden Rule: The Investment Theory of Party Competition and the Logic of Money-Driven Political Systems), trong đó tác giả phải cay đắng thừa nhận “Nguyên tắc Vàng” của nền chính trị Mỹ đương đại: “Muốn biết ai cai trị đất nước, hãy lần theo dấu vết của vàng” (To discover who rules, follow the gold).


Adam Kranz - một độc giả Mỹ, sau khi đọc cuốn sách này của Thomas Feguson, phải ngậm ngùi: “Từ trước đến nay cứ tưởng rằng ở Mỹ có nền dân chủ. Trên thực tế, sự bất bình đẳng về kinh tế (hố sâu rộng ngăn cách giàu nghèo) chặn đứng ảnh hưởng thực tế của đại đa số dân chúng tới các cuộc bầu cử lớn nhỏ ở Mỹ. Những doanh nghiệp lớn đang kiểm soát nền chính trị Mỹ. Để có nền dân chủ thực sự, cần phải có cuộc cải cách sâu rộng trong bầu cử v.v”.
 

Thế nhưng mới đây, đương kim Tổng thống B.Obama chọn Broderick Johnson làm cố vấn cho chiến dịch tranh cử năm 2012. B.Johnson vốn là nhà loby kỳ cựu của phố Wall. Năm 2007, ông vận động cho JP Morgan Chase, còn năm 2008 ông hậu thuẫn cho Bank of America và Fannie Mae.

Từ năm 2008 tới 2010, ông chăm sóc cho Comcast. Năm 2011 ông loby giúp Microsoft... Từ năm 2009 tới nay, B.Johnson tới Nhà Trắng 17 lần gồm cả việc tham gia các sự kiện xã hội và ngày mở cửa Nhà Trắng. Từ năm 2008, B.Johnson tài trợ hơn 150.000 USD (tiền của cá nhân) cho các ứng cử viên và chương trình của đảng Dân chủ và chưa bao giờ tài trợ cho các đại biểu Cộng hòa hay bảo thủ.
 

Nhân thân như vậy của B.Johnson rất dễ gây phản ứng xã hội không thuận cho Tổng thống B.Obama trong bối cảnh phong trào “Hãy chiếm lấy phố Wall” đang sôi sục và còn chưa có hồi kết. Nhưng B.Obama vẫn chọn B.Johnson làm cố vấn tranh cử năm 2012. Điều này cho thấy sự ủng hộ của giới tài phiệt ở phố Wall rất cần cho tương lai chính trị tiếp theo của B.Obama và ước mong của công dân Adam Kranz là chính đáng nhưng cũng thật là không tưởng.

Tài “chọn mặt gửi vàng” của đương kim Tổng thống B.Obama bắt đầu ứng nghiệm. Jon Corzine hiện đang làm cho MF Global Holdings vốn từng là cựu Thống đốc bang New Jersey và cựu Giám đốc điều hành của Goldman Sachs, tăng mức tài trợ tranh cử cho B.Obama tới 500.000 USD. Bruce Heyman - Giám đốc quản lý của Goldman Sachs, cùng vợ cũng tăng số tiền ủng hộ B.Obama lên khoảng từ 200.000 USD tới 500.000 USD. Còn Robert Wolf - Chủ tịch Ngân hàng Đầu tư UBS đẩy số tiền hỗ trợ cho B.Obama tranh cử lên tới ít nhất là nửa triệu USD.
 

Tuy nhiên, có thể số phận chưa chắc chiều ông B.Obama lần nữa, vì các ông trùm phố Wall đang “phản pháo” bằng cách ưu tiên hẳn cho ứng cử viên của đảng Cộng hòa Mitt Romney. Tỉ lệ tài trợ của Goldman Sachs cho Mitt Romney và Barack Obama tương ứng là: 352.200 USD và 49.124 USD. Con số tương tự của Morgan Stanley là 184.800 USD và 28.225 USD; của Bank of America là 112.500 USD và 46.699 USD; của JPMorgan Chase là 107.250 USD và 38.039 USD; của Citygroup là 56.550 và 36.887 USD v.v. Nếu chiều hướng này được duy trì và chi phối trên diện rộng cho tới hồi kết sang năm, thì không biết “ai sẽ thắng ai”.
 

Có một đêm, âm hưởng của những bước chân rầm rập của phong trào “Hãy chiếm lấy phố Wall” cộng với tiếng tranh cãi phải “mua” bằng được cuộc bầu cử Tổng thống năm 2012 của các ông trùm phố Wall, làm cụ Abraham Lincoln giật mình tỉnh giấc. Cụ cứ vân vi không biết có nên hóa giải lời nguyền ngày xưa của cụ về “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” hay không.

Theo ĐV/ Việt Nam & Thế giới

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo