Xuất khẩu nông lâm thủy sản vẫn gặp nhiều khó khăn
Xuất siêu nông, lâm, thủy sản 2 tháng tăng khoảng 87% / 4 tháng đầu năm: Xuất siêu nông, lâm, thủy sản đạt gần 4 tỉ USD
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) tháng 4/2023 ước đạt 4,54 tỷ USD, giảm 8,3% so với cùng kỳ năm trước (CKNT); giảm 1,2 triệu USD so với tháng 3/2023 (4,66 tỷ USD).
Tính tổng 4 tháng đầu năm, xuất khẩu NLTS đạt 15,66 tỷ USD, giảm 13,3% so với CKNT; xuất siêu 2,51 tỷ USD, giảm 37,7%.
Ngoài các nhóm hàng nông sản và chăn nuôi tăng (nông sản đạt 2,33 tỷ USD, tăng 24%; chăn nuôi đạt 41 triệu USD, tăng 46,7%), còn lại, các mặt hàng thủy sản, lâm sản đều giảm.
Cụ thể, thủy sản đạt 800 triệu USD, giảm 28,6%; lâm sản đạt 1,2 tỷ USD, giảm 29,8%.
Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao hơn CKNT như: Cà phê 1,7 tỷ USD, tăng 2,5%; rau quả 1,39 tỷ USD, tăng 19,4%; hạt điều 942 triệu USD, tăng 3,4%; thịt, phụ phẩm 45 triệu USD, tăng 63,7%. Tăng cao nhất là gạo, đạt 1,56 tỷ USD, tăng 54,5%.
Tuy nhiên, cũng có những mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm: Cao su 684,8 triệu USD, giảm 20,1%; chè đạt 50 triệu USD, giảm 5,8%; hồ tiêu đạt 325 triệu USD, giảm 10,2%; sắn và sản phẩm sắn đạt 453 triệu USD, giảm 12,1%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,91 tỷ USD, giảm 30,4%; mây, tre, cói thảm 245 triệu USD, giảm 29,2% và cá tra đạt 558 triệu USD, giảm 39,9%; tôm đạt 843 triệu USD, giảm 39,6%
Giá xuất khẩu bình quân một số nông sản xuất khẩu chính giảm: Hồ tiêu 5.846 USD/T, giảm 34,3%; phân bón các loại 421 USD/T, giảm 33,6%; cao su 1.392 USD/T, giảm 21,2%; sắn và sản phẩm từ sắn 384 USD/T, giảm 11,2%...
Riêng giá gạo đạt 526 USD/T, tăng 7,6%; cà phê đạt 2.261 USD/T, tăng 0,7%.
Về thị trường xuất khẩu, 4 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu NLTS tới các thị trường thuộc khu vực châu Á đạt 7,58 tỷ USD, tăng 2,7%; châu Mỹ đạt 3,28 tỷ USD, giảm 39,6%; châu Âu đạt 1,93 tỷ USD, giảm 13%; châu Phi đạt 223 triệu USD, giảm 21,2%; châu Đại Dương đạt 216 triệu USD, giảm 31%.
Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu NLTS lớn nhất. Giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng 20,9%, tăng 3,3% so với CKNT; Mỹ chiếm 18,9%, giảm 40,5% và Nhật Bản chiếm 8,1%, tăng 0,8%.
Theo Bộ NN&PTNT, nguyên nhân tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS giảm và thị trường xuất khẩu tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn là do kinh tế toàn cầu năm 2023 dự báo tăng trưởng chậm lại.
Ảnh hưởng từ xung đột quân sự Nga - Ukraina và lạm phát cao tại một số nước trên thế giới, trong đó có những thị trường nhập khẩu nông sản lớn của Việt Nam (Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc...), từ đó, làm giảm nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu nhập khẩu.
Bên cạnh đó, nhiều nước đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và tăng cung trên thị trường, trong khi, lượng hàng tồn nhập khẩu 2022 của một số thị trường tiêu thụ như Mỹ, EU còn lớn khiến nhiều doanh nghiệp chưa ký được đơn hàng xuất khẩu mới.
Giá nguyên liệu vật tư đầu vào phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản biến vẫn đang ở mức cao, ảnh hưởng đến điều tiết, quản trị sản xuất kinh doanh và tác động đến thu nhập của nông dân, lợi nhuận của doanh nghiệp.
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Xem nhiều nhất
Quy mô nền kinh tế Internet Việt Nam năm 2024 ước đạt 36 tỷ USD
Công ty Cổ phần Dệt may Thắng Lợi bị xử phạt
PGBank đẩy mạnh ký kết hợp tác cùng doanh nghiệp địa phương
Giá heo hơi ngày 25/11/2024: Miền Bắc giảm thêm, miền Nam tăng nhẹ
Giá nông sản ngày 25/11/2024: Cà phê tiếp tục tăng mạnh, hồ tiêu duy trì ổn định