Vốn ứ, tiền đọng
Dư tiền mà không cho vay được
Năm 2010, Công ty TNHH Lê Uyên gặp rủi ro nên hàng tồn kho ứ đọng không xuất khẩu được khiến công ty nợ quá hạn ngân hàng vài tỷ đồng. Giám đốc công ty đã bán căn nhà riêng để thanh toán khoản nợ này và chuyển sang sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
Và cũng từ thời điểm đó, do không có tài sản thế chấp, cộng với lần bị xếp vào danh sách nợ quá hạn, nên chuyện vay vốn đối với công ty trở nên vô cùng khó khăn.
“Dù chấp nhận vay lãi suất cao tại ngân hàng nhưng vẫn không được, nên tôi đành phải đem L/C cầm cố để vay tiền với lãi suất hơn 2%/tháng. Khi khách hàng thanh toán hợp đồng, tôi và người cho vay tiền cầm L/C cùng các giấy tờ khác đến ngân hàng rút tiền và nhận lại phần của mình”, giám đốc công ty kể. Với lãi suất hơn 2% tháng, khoản lãi ròng của công ty này hiển nhiên bị giảm đi 10%.
Khi hỏi các doanh nghiệp về chuyện vay vốn thì đại đa số đều có câu trả lời chung: “Ngân hàng giảm lãi suất xuống thấp hơn cũng không đến lượt mình!”. Để được vay vốn, doanh nghiệp phải đáp ứng được điều kiện thế chấp rất ngặt nghèo với điều kiện thế chấp 6/10.
Có nghĩa, với giá trị tài sản thế chấp 10 tỷ đồng, doanh nghiệp chỉ được vay 6 tỷ đồng. Theo đánh giá của các chuyên gia, quy định thế chấp trong hoạt động của các ngân hàng vẫn còn quá nặng nề, nếu không nói là khắt khe so với các quy trình thẩm định cho vay của các nước.
Bên cạnh đó, chủ trương của Ngân hàng Nhà nước hạn chế bơm vốn vào lĩnh vực phi sản xuất, tức “room” tín dụng càng ít, cung càng ít trong khi cầu khan hiếm, mức lãi suất cho vay ở lĩnh vực này sẽ phải cao. Chỉ những lĩnh vực kinh doanh tốt thì cácngân hàng thương mại mới dành cho gói tín dụng hàng ngàn tỷ đồng ưu đãi lãi suất thấp.
Nhưng thực tế không phải ngân hàng thương mại đã sử dụng hết room tín dụng ưu đãi, bởi nhiều doanh nghiệp hoạt động tốt, có tỷ suất sinh lời cao vẫn không mặn mà vay vốn lãi cao. Đại diện nhiều ngân hàng thừa nhận hiện nay các ngân hàng có dư tiền nhưng không cho vay được.
Do đó, mới xảy ra tình trạng các doanh nghiệp lớn có thể vay đến hàng ngàn tỷ đồng, rồi mất khả năng chi trả, trong khi các doanh nghiệp nhỏ kinh doanh tốt lại không thể vay vài tỷ đồng để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tình trạng này kéo dài dẫn đến nghịch lý: trong khi các ngân hàng dư thừa vốn và không tìm được các dự án đầu tư thì nhiều doanh nghiệp lại thiếu vốn và phải đi vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao.
Thậm chí, có thể vay được tại ngân hàng nhưng cũng phải chấp nhận mức lãi suất ngoài luồng cao hơn 3-4% so với mức lãi suất công bố là 15-16%/năm.
Không ép bằng mệnh lệnh hành chính
Khó khăn vay vốn ngân hàng đang là một rào cản lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo Cục Thuế TP.Hồ Chí Minh, trong 2 tháng đầu năm, số doanh nghiệp trên địa bàn ngưng hoạt động lên tới hơn 2.500 đơn vị.
Nguyên nhân do ngân hàng chỉ chú trọng cung cấp tín dụng. “Gần đây, nhiều ngân hàng lớn đã công bố hạ lãi suất cho vay chỉ mang tính phong trào theo chính sách.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình mới ban hành quyết định 5 ngân hàng thương mại Nhà nước là Agribank, VietinBank, Vietcombank, BIDV và MHB tiết giảm chi phí và hạ lãi suất cho vay, đồng thời quyết tâm “mỗi quý giảm 1%, đưa lãi suất huy động về mức 10%/năm vào cuối năm nay.” |
Bởi lẽ, thông báo hạ lãi suất nhưng một số ngân hàng cũng cho biết số khách hàng được hưởng mức lãi suất cho vay thấp chỉ chiếm khoảng 1-1,5% tổng dư nợ của ngân hàng vì họ cho rằng với mức lãi suất huy động 13%/năm, ngân hàng chỉ cho vay khoảng 16%/năm sẽ không có lợi nhuận.
Vì vậy, cũng sẽ không có nhiều doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn này”, ông Huỳnh Văn Minh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.Hồ Chí Minh, cho biết. Còn ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa nhìn nhận, mức giảm 1% chưa thể giúp doanh nghiệp vượt khó trong bối cảnh hiện nay.
TS. Vũ Thành Tự Anh cho rằng, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh nên không có lý do gì các ngân hàng phải hy sinh lợi nhuận để cứu doanh nghiệp . Tuy nhiên, ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt có sự tham gia điều hành của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ nên chuyện hỗ trợ doanh nghiệp cần có sự điều hành chính xác và chặt chẽ.
Doanh nghiệp là động lực thúc đẩy GDP tăng trưởng nên không có lý gì các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu phải chịu rủi ro để có tỷ lệ lãi khoảng 2%, còn ngân hàng chỉ chờ hưởng lợi. Ngân hàng Nhà nước phải tạo ra cơ chế để các ngân hàng thương mại tự giảm chi phí.
“Một khi phải kinh doanh, một khi không nhận được vị thế vốn rẻ thì hiển nhiên họ phải đưa ra các biện pháp tiết giảm chi phí để cạnh tranh. Khi họ ở vị trí cao như vậy rồi mà yêu cầu họ tiết giảm chi phí, giảm lãi suất thì đó là hành vi phi thị trường, không có sức thuyết phục, giống như một lời kêu gọi, không làm cũng không sao”, TS. Vũ Thành Tự Anh nhận định.
Ngoài ra, nhiều chuyên gia nhận định, để mặt bằng lãi suất cho vay có thể giảm thêm, chính sách giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước phải có độ trượt trong một vài tháng tới. Khi lạm phát được kiềm chế ở mức 9%, lãi suất đầu vào khoảng 11%/năm, thì mặt bằng lãi suất cho vay xoay quanh 14-15%/năm, doanh nghiệp mới làm ăn có lãi.
Theo Doanhnhansaigon
End of content
Không có tin nào tiếp theo