Thị trường

10 sự kiện nổi bật của ngành Điện lực trong giai đoạn 2011-2015

(DNVN) - Với quyết tâm và nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã hoàn thành những chỉ tiêu kế hoạch năm 2015 và 5 năm 2011-2015 với những thành tựu nổi bật.

1. Cung cấp đủ điện cho nền kinh tế và đời sống nhân dân với chất lượng ngày càng cao, hệ thống điện đã có dự phòng về nguồn phát.

 Trong giai đoạn 2011-2015, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đáp ứng đủ nhu cầu điện cho phát triển KT-XH của đất nước. Ước đến cuối năm 2015, tổng công suất các nguồn điện trên toàn quốc là 38.800 MW, trong đó các nguồn điện do EVN sở hữu là 23.580 MW (chiếm 60,8% công suất đặt của hệ thống), tăng 1,8 lần so với năm 2010. 

EVN hiện đang quản lý hệ thống lưới điện gồm trên 41.100 km đường dây 500 - 220 - 110 kV (tăng 1,5 lần so với năm 2010) và trên 440.000 km đường dây trung thế và hạ thế (tăng 1,2 lần so với năm 2010); tổng dung lượng trạm biến áp 500 - 220 - 110 kV tăng 1,8 lần so với năm 2010.

Công tác điều hành cung ứng điện đã đáp ứng nhu cầu và mức tăng trưởng nhu cầu điện của nền kinh tế; huy động hợp lý các loại nguồn điện đạt hiệu quả kinh tế.

Tổng sản lượng điện sản xuất và mua 5 năm 2011-2015 là 668,5 tỷ kWh, tăng trưởng bình quân 10,37%/năm. Tổng sản lượng điện thương phẩm giai đoạn 2011-2015 là 587,5 tỷ kWh, tăng trưởng bình quân 10,84%/năm. Riêng năm 2015, sản lượng điện thương phẩm đạt 143,34 tỷ kWh. Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm nội địa so với với tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 là 1,85 lần.

2. Hoàn thành vượt kế hoạch giá trị khối lượng thực hiện đầu tư xây dựng.

 Giai đoạn 2011-2015, EVN đã thực hiện khối lượng lớn đầu tư nguồn và lưới điện, hoàn thành được nhiều dự án, tăng cường năng lực cung cấp điện của hệ thống điện quốc gia, đảm bảo cấp điện cho miền Nam, cho thủ đô Hà Nội và các vùng kinh tế trọng điểm. Đây cũng là thời kỳ có khối lượng và tốc độ đầu tư lớn nhất trong quá trình phát triển của EVN, góp phần tạo dựng hệ thống cơ sở hạ tầng điện lực với quy mô bề thế, đứng thứ 3 trong các nước ASEAN và thứ 31 thế giới.

Về nguồn điện: Giai đoạn 2011 - 2015, EVN đã hoàn thành đưa vào phát điện 34 tổ máy thuộc 17 dự án với tổng công suất 9.852 MW (bằng 125% so với Quy hoạch điện VII được duyệt). Đặc biệt, công trình Thủy điện Sơn La - công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á công suất 2.400MW đã hoàn thành phát điện vượt trước thời hạn 3 năm so với Nghị quyết của Quốc hội, đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho đất nước, được Đảng và Chính phủ đánh giá cao.

Về lưới điện: Trong giai đoạn 2011 – 2015, EVN hoàn thành đóng điện 885 công trình lưới điện từ 110 - 500 kV với tổng chiều dài đường dây trên 12.500 km và tổng dung lượng trạm biến áp tăng thêm  gần 60.000 MVA, đảm bảo đấu nối, truyền tải công suất phát các nguồn điện, tăng cường năng lực truyền tải của toàn hệ thống, đã kết nối khép kín mạch vòng 500kV tại các khu kinh tế trọng điểm miền Bắc, miền Nam và kết nối ở cấp điện áp 500kV lưới điện Đông Nam bộ với Tây Nam bộ và khả năng cung ứng điện của lưới điện tại nhiều khu vực.

3. Hoàn thành vượt mức về đầu tư lưới điện quốc gia cho khu vực nông thôn miền núi và hải đảo

 Tính đến cuối năm 2015, cả nước có 100% số huyện có điện lưới và điện tại chỗ; 99,8% số xã với 98,76% số hộ dân nông thôn có điện lưới, vượt 0,76% so với chỉ tiêu được giao cuối năm 2015. Tại các vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hầu hết nhân dân ở các khu vực này đã được sử dụng điện: Khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc đạt 96,62% về số xã và 83,76% số hộ dân nông thôn có điện; khu vực các tỉnh Tây Nguyên là 99,83% và 95,8%; khu vực Tây Nam bộ là 98,85% và 97,27%.

EVN đã cơ bản hoàn thành công tác tiếp nhận và tiến hành cải tạo nâng cấp lưới điện hạ áp nông thôn để bán điện trực tiếp đến các hộ dân với mục đích để người dân nông thôn được hưởng lợi từ chính sách giá điện của Chính phủ. Giai đoạn 2011-2015 đã tiếp nhận gần 1.370 xã tương ứng với trên 1,97 triệu hộ dân nông thôn. Số khách hàng được EVN cung cấp điện trực tiếp đến nay đạt  23,7  triệu khách hàng, tăng trên 6 triệu khách hàng (tăng 31%) so với năm 2010.

Nhằm đảm bảo cấp điện thường xuyên, liên tục, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế biển và giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã đầu tư cấp điện cho 9/12 huyện đảo gồm: đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi); Phú Quốc, Kiên Hải (Kiên Giang); Phú Quý (Bình Thuận); Vân Đồn, Cô Tô (Quảng Ninh), Cát Hải, Bạch Long Vỹ (Hải Phòng), Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu).

4. Công tác kinh doanh và dịch vụ khách hàng đạt được những bước tiến đáng kể, chỉ số tiếp cận điện năng và các chỉ số độ tin cậy cung cấp điện được cải thiện rõ rệt.

 Hiện nay, tổng số khách hàng mua điện trực tiếp của EVN đạt 23,7 triệu khách hàng tăng 31% so với năm 2010. Theo đó, công tác kinh doanh dịch vụ khách hàng cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Điểm bình quân đánh giá mức độ hài lòng khách hàng sử dụng điện toàn Tập đoàn do đơn vị Tư vấn độc lập thực hiện điều tra tăng hàng năm và đạt 7,5/10 vào năm 2015.

Thời gian phục hồi điện sau sự cố trong vòng 2 giờ; lắp đặt công tơ mới cho khách hàng khu vực đô thị với thời gian nhỏ hơn 3 ngày đạt 83,17% số trường hợp; khu vực nông thôn với thời gian nhỏ hơn 5 ngày đạt 88,61% số trường hợp. Chỉ tiêu độ tin cậy cung ứng điện theo tiêu chuẩn quốc tế của toàn Tập đoàn ngày càng được cải thiện rõ rệt và được khách hàng ghi nhận.

5. Hoàn thành công tác thoái giảm vốn tại các doanh nghiệp ngoài ngành nghề kinh doanh chính theo đúng chỉ đạo của Chính phủ.

 Trong thời gian qua, EVN đã đã tích cực xây dựng phương án thoái vốn, tổ chức bán đấu giá công khai, tìm kiếm các đối tác để đàm phán chuyển nhượng vốn góp tại các công ty cổ phần thuộc diện thoái vốn.

Về thoái vốn tại các doanh nghiệp ngoài ngành nghề kinh doanh chính: Theo Đề án tái cơ cấu EVN giai đoạn 2012 - 2015, EVN sẽ phải thực hiện thoái vốn và giảm vốn tại 07 Công ty cổ phần (CTCP). Tính đến cuối năm 2015, EVN đã thoái toàn bộ vốn ở 4 doanh nghiệp bất động sản (CTCP Đầu tư xây dựng Điện lực Việt Nam, Công ty cổ phần Bất động sản Sài Gòn Vina, Công ty cổ phần Bất động sản Điện lực miền Trung, Công ty CP Chứng khoán An Bình) và Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank), Công ty CP Bảo hiểm Toàn cầu (GIC) theo đúng phê duyệt của Bộ Công Thương với hình thức thỏa thuận chuyển nhượng và đấu giá công khai với giá trị cổ phiếu bằng hoặc cao hơn mệnh giá; hoàn thành việc giảm vốn tại Công ty Tài chính cổ phần Điện lực (EVNFinance) xuống còn 15% vốn điều lệ của EVNFinance theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.

Tổng giá trị thoái vốn, giảm vốn ngoài ngành nghề kinh doanh chính của EVN đạt 1.993,202 tỷ đồng, lãi gần 35 tỷ đồng.

6. Công tác giảm tổn thất điện năng đạt kế hoạch Chính phủ giao.

 Tại Quyết định số 845/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ giao chỉ tiêu tỷ lệ tổn thất điện năng toàn Tập đoàn đến năm 2015 không cao hơn 8%. Đây là thách thức lớn cho Tập đoàn trong bối cảnh truyền tải trên hệ thống 500kV Bắc - Nam luôn ở mức cao do một số nguồn điện của các nhà đầu tư ngoài EVN đưa vào vận hành chậm tiến độ và EVN thực hiện tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn.

Sau 5 năm, Tổn thất điện năng giảm được 2,15% từ 10,15% năm 2010 xuống còn 8,0% vào cuối năm 2015 bằng việc thực hiện nhiều giải pháp đột phá. Như vậy, tổn thất điện năng của EVN tương đương với tổn thất của các công ty điện lực cùng mô hình tổ chức ở các nước trong khu vực (năm 2014 tổn thất của Công ty TNB- Malaysia là 8,33%, Công ty PT PNL - Indonesia là 9,92%...).

7. Các hoạt động tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả liên tục có nhiều chuyển biến tích cực.

Trong thời gian qua, EVN và các đơn vị đã triển khai sâu rộng nhiều hoạt động tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả tại các địa phương với các dự án cụ thể để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Nhận thức về tiết kiệm điện trong xã hội được nâng cao với việc người dân và doanh nghiệp đã chủ động sử dụng các thiết bị tiết kiệm điện cũng như thực hiện các giải pháp tiết kiệm điện. Sản lượng điện tiết kiệm hàng năm đạt từ 1,7-2,5% sản lượng điện thương phẩm. Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm nội địa so với với tốc độ tăng trưởng GDP của giai đoạn 2011-2015 là 1,84 lần so với 2,02 lần giai đoạn 2006-2010, cho thấy tiêu dùng điện đã có chiều hướng hiệu quả hơn.

8. Triển khai tốt công tác trồng bù rừng các dự án thủy điện.

 Thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội khóa 13 và Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 18/02/2014 của Chính phủ về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện; Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng, EVN phải thực hiện trồng bù rừng thay thế thuộc 18 dự án thủy điện của EVN trên cả nước, tổng diện tích phải trồng khoảng 12.859 ha.

Đến cuối năm 2015, trong tổng số 18 dự án, đã có 03 dự án Thủy điện ở khu vực miền trung hoàn thành công tác trồng bù rừng và được cấp chứng nhận gồm: TĐ A Vương, Sông Ba Hạ, Buôn Tua Srah; 15 dự án thủy điện còn lại đã được địa phương phê duyệt phương án trồng bù rừng thay thế và đã hoàn thành chuyển tiền cho địa phương để trồng và chăm sóc năm đầu gồm thủy điện Sông Tranh 2, Bản Vẽ, Đồng Nai 3, 4; An Khê - Knak, Sông Bung 4, Trung Sơn, Thượng Kon Tum, Sơn La, Bản Chát, Huội Quảng, Lai Châu, Tuyên Quang, Sê San 4 và Sông Bung 2.

Ngoài việc chi hàng nghìn tỷ đồng trồng bù rừng thay thế, EVN còn góp phần bảo vệ môi trường rừng ở 29 tỉnh nơi có dự án thủy điện của EVN thông qua việc nộp phí dịch vụ môi trường rừng hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm (Năm 2013 nộp 1.148 tỷ đồng, năm 2014: trên 1.192 tỷ đồng và năm 2015: ước tính  hơn 4.067 tỷ đồng).

9. Áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống điện

 Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến được triển khai sâu rộng, bám sát Chiến lược phát triển công nghệ điện lực của EVN đến năm 2015, định hướng đến năm 2025.

Một số thành tựu tiêu biểu đó là: Tự thiết kế và xây dựng thành công Nhà máy Thủy điện Sơn La; chế tạo thành công máy biến áp 500kV; đưa vào vận hành các tổ máy nhiệt điện than phun 622MW (tại Duyên Hải 1, Vĩnh Tân 2); nâng cao thông số nhiệt độ, áp suất, để giảm hàm lượng phát thải cacbon và tăng hiệu suất chu trình (Duyên Hải 1, Uông Bí MR 2, Quảng Ninh 2, Hải Phòng 2...); sử dụng công nghệ lò tầng sôi hiện đại tại nhiệt điện Mông Dương 1; đưa vào vận hành công trình thủy điện ngầm đầu tiên do Việt Nam tự thiết kế, thi công (TĐ Huội Quảng).

Lưới điện truyền tải và phân phối được đầu tư và ứng dụng công nghệ hiện đại để nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng, như: Ứng dụng thiết bị điện tử công suất (SVC); áp dụng công nghệ chẩn đoán trạng thái thiết bị: kiểm tra phóng điện cục bộ MBA 220-500kV; giám sát dầu online tại trạm biến áp 500kV; vệ sinh cách điện trên lưới điện đang mang điện bằng nước áp lực cao; sửa chữa lưới điện không cần cắt điện...

10. Công tác an sinh xã hội được thực hiện đồng bộ với qui mô lớn và đem lại hiệu quả thiết thực.

 Trong 5 năm qua, EVN đã thực hiện tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn tại gần 1.370 xã với trên 1,97 triệu hộ dân nông thôn, đem lại lợi ích thiết thực do được sử dụng điện đúng mức giá theo quy định của Chính phủ.

Cùng với đó, Tập đoàn đã hoàn thành các chương trình hỗ trợ 3 huyện nghèo Tân Uyên, Than Uyên và Phong Thổ tỉnh Lai Châu giai đoạn 2009-2015, tổng giá trị thực hiện là 575 tỉ đồng, về cấp điện đã nâng tỉ lệ số hộ dân có điện tại 3 huyện từ 40% năm 2011 lên 90% cuối năm 2015. Trong giai đoạn từ 2011-2015, EVN đã hỗ trợ thêm gần 900 tỉ đồng cho công tác di dân tái định cư tại các dự án nguồn điện.

Nên đọc
Văn Hải
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo