Tin tức - Sự kiện

Đại tá Trần Hiệu: Từ điệp viên đồng minh trở thành người lãnh đạo tình báo cộng sản

Tới tháng 4 này sẽ là kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Cố Đại tá Trần Hiệu, Cục trưởng Cục Tình báo đầu tiên, nguyên Giám đốc Nha Liên lạc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao…Đây là một chiến sĩ cách mạng với cuộc đời có rất nhiều tình tiết hấp dẫn và lý thú mà tiếc rằng, cho tới hôm nay, chúng ta vẫn chưa được biết nhiều.

Cố Đại tá Trần Hiệu, Cục trưởng Cục Tình báo đầu tiên, nguyên Giám đốc Nha Liên lạc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao

Lớn lên làm cách mạng

Ông Trần Hiệu sinh ngày 30/4/1914. Ông vốn thuộc dòng họ Vũ Văn ở Phúc Lâm, Mỹ Đức, trước thuộc Hà Đông, nay là Hà Nội, nơi có thắng cảnh chùa Hương nổi tiếng. Tên thật của ông là Vũ Văn Địch.

Gia đình ông là nông dân nhưng cũng có của ăn của để, rất sùng Nho học và có truyền thống yêu nước. Chính vì lớn lên trong những điều kiện như thế, sớm tiếp xúc với những sách vở ái quốc nên ngay từ nhỏ, nhà lãnh đạo tình báo tương lai đã tích cực tham gia những hoạt động yêu nước.

Năm 12 tuổi (1926), ở ngay trường làng, cậu bé Địch đã rất hăng hái tham gia Lễ Truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh. Ra Hà Nội học ở Trường Bờ sông, ngay khi chỉ mới là học sinh lớp nhì, Vũ Văn Địch đã được kết nạp vào Tổ chức Thanh niên Cộng sản. Học hết đệ nhất cấp, hòa vào phong trào vô sản hóa của những thanh niên trí thức cách mạng, ông đi học nghề thợ nguội ở xưởng Tân Thành tại phố Hàng Nón, Hà Nội rồi tới năm 1935 xuống Hải Phòng học nghề sửa chữa ô tô ở Trường Kỹ nghệ thực hành. Chính tại đó, Trần Hiệu đã tham gia làm báo bí mật.

Năm 1936, sau khi bị đuổi học nghề ở Hải Phòng vì những hoạt động cách mạng, Trần Hiệu lên Hà Nội tham gia hoạt động Phong trào Mặt trận Dân chủ, Hội Ái hữu và Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương. Năm 1937, ông được giao Phụ trách Phòng Quản trị Tờ báo Thế giới, một trong ba tờ báo chính của Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương. Năm 1938, ông được các đồng chí Trường Chinh, Đào Duy Kỳ giới thiệu vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh hoạt trong Chi bộ công khai ở Hà Nội.

Những hoạt động cách mạng năng nổ của Trần Hiệu dĩ nhiên không lọt được khỏi mắt của mật thám Pháp nên năm 1939, ông bị chính quyền thực dân bắt giữ, kết án tù và đưa lên giam ở nhà tù Sơn La. Trong tù, ông đã giữ vững khí tiết và tinh thần đấu tranh không khoan nhượng. Tới tháng 9/1940, ông bị đưa về giam ở xà lim của Sở Mật thám Hà Nội.

Đầu năm 1941, Trần Hiệu tiếp tục bị thực dân Pháp đày lên nhà lao Bắc Mê, Hà Giang. Tại đó, ông tham gia thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương, góp phần tạo nên ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng ở các địa bàn lân cận. Không ngẫu nhiên mà chính một số làng bản ở Bắc Mê về sau đã trở thành cơ sở hoạt động của Đảng bộ địa phương trong những năm 1940-1945.

Nhận thấy phong trào ở đó dâng lên nên chính quyền thực dân đã lại phải đưa ông và một số tù nhân Cộng sản khác về giam tại nhà lao Sơn La. Tại đây, ông cũng đã tham gia tuyệt thực phản đối chế độ thực dân. Chính vì thế nên tới giữa tháng 6/1941, Trần Hiệu cùng 7 đảng viên Cộng sản khác và 2 tù thân Nhật là Nguyễn Thế Truyền và em là Nguyễn Thế Song (theo hồi ký của đồng chí Tô Gĩ (tức Lê Giản, một trong 8 người tù Cộng sản trong nhóm này) bị đẩy lên tàu hòa về xuôi.

Tới Ninh Bình, nhóm tù nhân có thêm một người mới, đó là đồng chí Phan Bôi (sinh năm 1911, người gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1930, từng sinh hoạt cùng chi bộ với Hải Triều và Trần Văn Giàu, từ tháng 8/1945 lấy tên là Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…). Nhóm tù 11 người đã bị đưa vào Sài Gòn bằng xe lửa rồi bị đưa xuống tàu thủy, đem đi đày ở đảo Madagascar (châu Phi)…

Đường về quê mẹ

Đầu tháng 11/1942, quân đội Anh đã tới chiếm được Madagascar. Họ đã bày tỏ thiện cảm cùng với những người tù chính trị Việt Nam, vốn có tình cảm ủng hộ lực lượng Đồng minh chống phát xít. Và sau khi chính phủ của ông tướng kháng chiến Charles De Gaulle lên nắm quyền ở Paris, viên công sứ Pháp ở Madagascar đã buộc phải tuyên bố trả lại tự do cho những người tù Việt Nam trên đảo.

Được ra ngoài hòa nhập với dân bản xứ, những cựu tù chính trị người Việt đã tận tình hướng dẫn dân bản địa cách trồng lúa nước, dệt vải bông, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ…,vì vậy mà được nhân dân và chính quyền bản địa rất quý mến.

Tới đầu năm 1943, với suy nghĩ “hổ có về rừng thì mới là hổ”, nhóm cựu tù chính trị Cộng sản ở Madagascar đã quyết định tìm cách tham gia lực lượng Đồng minh chiến đấu chống phát xít để tùy cơ ứng biến tìm đường về Việt Nam. Tháng 3/1943, quân Đồng minh Anh-Pháp ở Madagascar đã gọi Hoàng Đình Giong (tức Vũ Đức, sau là Khu trưởng Khu 9, Khu 6) và Đoàn Ngọc Rê (tức Cao Dương Tiệp, Dương Công Hoạt, sau là Ủy viên Ban Dân tộc Trung ương kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ) nhập ngũ.

Tới ngày 4/6/1943, Phan Bôi, Tô Gĩ, Nguyễn Văn Phòng được gọi nhập ngũ, tới đầu tháng 9 thì đến Trần Hiệu và 12 người khác. Hầu hết được đưa tới Đại đội 1 thuộc cái gọi là “Quân chí nguyện Đông Dương” của lực lượng De Gaulle. Tại đây, Trần Hiệu và các đồng chí của ông không ngừng các hoạt động cách mạng, vừa vận động binh lính người Việt, vừa tìm cách tranh thủ, thuyết phục binh lính Pháp để bảo toàn đội ngũ, tìm cách sớm trở về nước.

Đầu năm 1944, ông cùng với hai người đồng chí của mình là Nguyễn Văn Ngọc (sinh năm 1908, về sau từng là Bí thư Thành ủy Hà Nội trong những năm 1939-1940, Viện phó Viện Công tố, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Biên giới…) và Nguyễn Văn Phòng (tức Nguyễn Văn Minh, sau là Chánh án Tòa Dân sự, Tòa án Nhân dân Tối cao) được chỉ huy quân đội Anh tập hợp thành một nhóm và đưa tới Kenya rồi sang Ấn Độ để tham dự huấn luyện nghiệp vụ tình báo. Bốn người đồng chí khác là Phan Bôi, Lê Giản, Hoàng Đình Giong và Đoàn Ngọc Rê, được chia vào các nhóm khác…

Tại Ấn Độ, gặp lại đồng chí Phan Bôi, ba chàng trai trẻ mới được biết rằng người Anh định sử dụng họ để thực hiện các chương trình phát thanh ở Sydney (Australia), San Francisco (Mỹ) và New Delhi (Ấn Độ). Là những người Cộng sản “chân truyền”, hiểu rõ bản chất thực của các nước tư bản “gộc” trong lực lượng Đồng minh nên Trần Hiệu cùng các đồng chí của mình đoán trước được rằng, nếu thực sự gia nhập lực lượng Anh-Mỹ thì rốt cuộc chắn chắn sẽ bị lợi dụng để chống lại Liên Xô nên các ông đã tìm mọi cách thoái thác những đề nghị hợp tác xem ra có vẻ hấp dẫn. Đồng thời nhóm cán bộ người Việt này đã tìm cách bí mật liên lạc với Đảng Cộng sản Ấn Độ…

Cuối cùng, tình báo Anh ở Trung tâm Calcutta đành phải chuyển họ, huấn luyện họ về lý thuyết hoạt động tình báo, cách đánh morse và dịch mật mã. Tham gia huấn luyện có cả các nhân viên Cục Tình báo Chiến lược Mỹ (OSS, tiền thân của CIA)…Tháng 3/1945, chỉ huy tình báo Anh đã cho máy bay B-29 của Anh chở Trần Hiệu, Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Văn Phòng bay từ Dakar qua vịnh Bengal, vịnh Thái Lan vào vịnh Bắc Bộ tới châu thổ sông Hồng.

Theo kế hoạch, ba tình báo viên người Việt sẽ phải nhảy dù cùng điện đài xuống khu vực Miếu Môn để triển khai hoạt động, nhưng vì vấp phải mạng lưới pháo phòng không của phát xít Nhật bắn lên, cộng thêm với điều kiện tự nhiên có sương mù lại dày đặc nên máy bay đã phải quay về. Phi vụ thứ hai đã được tiến hành vào tháng 5/1945 theo đúng lịch trình cũ. Ba tình báo viên người Việt của Đồng minh đã nhảy dù thành công xuống làng Tiên Lữ, huyện Quốc Oai. Nhờ được nhân dân che chở, giúp đỡ, ba người đã tìm về được nhà Trần Hiệu ở Phúc Lâm và chỉ ít ngày sau đã bắt liên lạc được với Xứ ủy Bắc Kỳ…

Thượng cấp đã khen ngợi họ khéo léo tận dụng cơ hội tìm đường trở về hòa nhập với phong trào cách mạng trong nước ở thời điểm tối quan trọng của dân tộc…

Đồng chí Phan Bôi được máy bay Anh thả dù ở Cao Bằng..7 thành viên trong nhóm chiến sĩ tình báo bề ngoài là của Đồng minh nhưng trong trái tim và khối óc vẫn giữ nguyên chất cộng sản đều lần lượt nối lại liên lạc với tổ chức. Gặp họ, lãnh tụ Hồ Chí Minh khuyên rằng không nhất thiết họ phải đốt dù và căn dặn nên bắt liên lạc lại với người Anh tại Trung tâm chỉ huy ở Calcutta (Ấn Độ) để xin thêm vũ khí, điện đài, thuốc chữa bệnh và tiếp tục cộng tác trên cơ sở cùng chiến đấu chống lại phát xít.

Ở thời điểm đó, Trần Hiệu đã được sắp xếp trú tại một ngôi chùa ở xóm La Dương, xã La Phù, huyện Hoài Đức. Tổ chức giao cho ông nhiệm vụ: giữ liên lạc bình thường với người Anh, thực hiện liên lạc bằng điện đàm giữa Xứ ủy và Trung ương, chuẩn bị chương trình để mở lớp huấn luyện về trinh sát quân sự cho Xứ ủy…Và ông đã hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ đó.
Vĩ thanh

Mùa thu năm 1945, đồng chí Trần Hiệu tham gia chỉ đạo khởi nghĩa ở Hà Đông và là người đại diện phía cách mạng tiếp nhận sự bàn giao chính quyền từ Tổng đốc Hà Đông lúc đó là Hồ Đắc Điềm.

Sau Cách mạng tháng Tám, đồng chí Trần Hiệu được cử Phụ trách Phòng Án Chính trị rồi làm Phó Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ. Chính ông cùng những người đồng đội chí cốt của mình từ thời Madagascar như Lê Giản…đã tham gia chỉ đạo lực lượng công an trấn áp có hiệu quả lực lượng phản động Đại Việt và Quốc dân đảng trong vụ ác Ôn Như Hầu…

Ngày 20/3/1947, Chính phủ thành lập Cục Tình báo thuộc Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam. Và chính người được cử làm Cục trưởng chính là Trần Hiệu…Chính ông là người khi gặp đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương) đã phát hiện ngay ra rằng đấy là người  mà ngành tình báo non trẻ của chúng ta cần nên đã lên gặp đồng chí Trường Chinh xin cho về và được chấp thuận.

Khi Cục Tình báo giải thể, tháng 4/1950, Trần Hiệu được cử làm Phó giám đốc Nha Công an Việt Nam kiêm Trưởng ty Tình báo, Nha Công an. Tới ngày 15/7/1951, Cơ quan Tình báo Chiến lược của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập với tên gọi Nha Liên lạc thuộc Thủ tướng Phủ được thành lập, đồng chí Trần Hiệu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bổ nhiệm làm Giám đốc. Tới ngày 10/6/1957, Nha Liên lạc hợp nhất với Cục Quân báo – Bộ Tổng tham mưu thành Cục Tình báo – Cơ quan Tình báo Chiến lược toàn diện của Đảng và Quân đội, ông lại được bổ nhiệm làm Cục trưởng.

Năm 1958, ông được phong quân hàm Đại tá. Năm 1960, sau Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, Đại tá Trần Hiệu được bổ nhiệm là Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao và ông đã đảm nhận vị trí này cho tới khi về hưu năm 1984, ở tuổi thất thập.

Ông qua đời ngày 9/11/1997 tại TP.HCM, hưởng thọ 84 tuổi.

Phạm Huy - ANTG
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo