Công bố 10 tài năng trẻ nhận Giải thưởng Quả cầu vàng
Đà Nẵng: Sinh viên tạo ra thiết bị lưu trữ hydrogen / Phát triển ngành công nghiệp bán dẫn: Nhìn từ chính sách
Giải thưởng Khoa học công nghệ Quả Cầu Vàng do T.Ư Đoàn phối hợp với Bộ KH&CN trao hằng năm, mỗi năm có tối đa 10 cá nhân là những tài năng trẻ không quá 35 tuổi. Giải thưởng xét trao 5 lĩnh vực: Công nghệ thông tin, chuyển đổi số và tự động hóa; Công nghệ y – dược; Công nghệ sinh học; Công nghệ môi trường và Công nghệ vật liệu mới.
Năm 2024, Ban tổ chức nhận được 69 hồ sơ (62 hồ sơ hợp lệ, 7 hồ sơ không hợp lệ) đề cử của 39 cơ quan, đơn vị, các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp trong cả nước và Đại sứ Quán Việt Nam, Hội Thanh niên, Sinh viên Việt Nam ở nước ngoài.
Sau khi có kết quả phân loại chất lượng hồ sơ của Ban Thư ký, ngày 17/9/2024,Hội đồng Giải thưởngđã tiến hành họp phiên thứ nhất, xem xét kỹ từng hồ sơ và tiến hành thảo luận, đánh giá từng cá nhân theo lĩnh vực, bỏ phiếu chọn ra 20 ứng viên tiêu biểu thuộc 5 lĩnh vực xét giải để công bố công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ngày 11/10, Hội đồng Giải thưởng đã họp phiên thứ hai thảo luận, bỏ phiếu và thống nhất đề xuất các cá nhân xuất sắc tiêu biểu. Căn cứ Quy chế và đề xuất của Hội đồng Giải thưởng, Ban Bí thư T.Ư Đoàn đã quyết định trao Giải thưởng Khoa học công nghệ Quả Cầu Vàng năm 2024 cho 10 tài năng trẻ xuất sắc nhất.
Trong đó, lĩnh vực Công nghệ thông tin,chuyển đổi sốvà tự động hóa: 3 cá nhân; Công nghệ y - dược: 1 cá nhân; Công nghệ sinh học: 1 cá nhân, Công nghệ môi trường: 2 cá nhân và Công nghệ vật liệu mới: 3 cá nhân.
DANH SÁCH 10 TÀI NĂNG TRẺNHẬN GIẢI THƯỞNG KHCN QUẢ CẦU VÀNG NĂM 2024:
1. TS Ngô Khắc Hoàng (giáo sư trợ lý, ĐH Linköping, Thụy Điển), tác giả chính của công trình nghiên cứu "Unsourced Multiple Access With Random User Activity".
Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích giới hạn về hiệu quả sử dụng năng lượng của một hệ thống đa truy cập cực lớn để trả lời câu hỏi: khi hàng trăm thiết bị cùng phát đồng thời trên một đơn vị tài nguyên hữu hạn, đâu là mức năng lượng tối thiểu để đạt được một độ tin cậy cho trước. Công trình đăng trên bài báo được xuất bản bởi tạp chí uy tínIEEE Transactions on Information Theory.
2. TS Nguyễn Văn Sơn (giảng viên Khoa Công nghệ thông tin, Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc giaHà Nội), tác giả công trình nghiên cứu "CodeJIT" cho phép phát hiện sớm các thay đổi (còn gọi là commit) nguy hiểm tạo ra các lỗ hổng bảo mật trong quá trình phát triển phần mềm, giúp các nhà phát triển có thể kiểm tra và sửa chữa các commit này kịp thời khi chúng vẫn còn mới và dễ theo dõi.
Công trình nghiên được đăng với tiêu đềCode-centric learning-based just-in-time vulnerability detection" trên Tạp chíJournal of Systems and Software, với h5-index 69 và IF 3.7, top 3 đơn vị xuất bản quốc tế về hệ thống phần mềm.
3. TS Lê Kim Hùng (Trưởng bộ môn truyền thông, Khoa Mạng máy tính và truyền thông, Trường ĐH Công nghệ thông tin, ĐH Quốc gia TP.HCM), tác giả chính của công trình "Nghiên cứu thuật toán lấy mẫu thích ứng cho thiết bị trong internet vạn vật quy mô lớn".
Mục tiêu của công trình nghiên cứu là giải quyết thách thức về tiết kiệm năng lượng trong các hệ thống IoT quy mô lớn, nơi sử dụng một số lượng lớn các thiết bị IoT giá rẻ với nguồn năng lượng hạn chế (thường là pin).
Công trình nghiên cứu đã được cấp bằng sáng chế quốc tế và đang được ứng dụng tại công ty GreencityZen, Pháp. Công trình được đăng trên tạp chí quốc tế uy tínISI-Q1thuộc Nhà xuất bản IEEE với Impact Factor 3.4.
4. TS Nguyễn Phước Vinh (Trưởng phòng Khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế, Phó trưởng khoa Dược, Trường ĐH Khoa học sức khỏe, ĐH Quốc gia TP.HCM). Tác giả chính của công trình nghiên cứu "Active nanovectorization of siRNAs for a specific and synergistic activity with chemotherapy in the treatment of EGFR-positive cancers".
Nghiên cứu này tập trung lên sự phát triển một hệ nano thuốc tác động đích lên các tế bào ung thư tăng cường biểu hiện protein EGFR và sử dụng liệu pháp gene can thiệp (thông qua các siARN). Quỹ nano này được kỳ vọng sẽ cho một tác dụng đặc hiệu và cộng hợp với liệu pháp hóa trị trong điều trị các bệnh ung thư mà ở đó protein EGFR được tăng cường biểu hiện. Công trình đã được đăng trên 5 tạp chí hạng Q1 thuộc danh mục Scopus/SCIE, đạt giải thưởng xuất sắc về bào chế năm 2022 của Viện Hàn lâm dược học Cộng Hòa Pháp.
5. TS Lê Bá Vinh (nghiên cứu viên Trường Dược, ĐH Korea, Hàn Quốc), tác giả chính của công trình nghiên cứu "Xác định các chất ức chế triterpenoid saponin của interleukin IL-33 truyền tín hiệu từ rễ cây hoàng kỳ". Nghiên cứu về IL-33 và ST2 đang mở ra những tiềm năng mới trong việc phát triển các liệu pháp điều trị các bệnh viêm mãn tính và dị ứng.
Mô hình nghiên cứu này cũng có thể áp dụng rộng rãi để sàng lọc các chất trên cùng mô hình viêm da dị ứng, mang lại tiềm năng trong phát triển các phương pháp điều trị mới và cải thiện chất lượngcuộc sốngcủa bệnh nhân. Công trình đã được công bố trên tạp chíQ1(Journal of Functional Foods) của Nhà xuất bản Elsevier (IF 5.6, CI11).
6. TS Võ Trường Giang (nghiên cứu viên, Viện Bền vững về hóa học, năng lượng và môi trường, Cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ Singapore). Tác giả chính của công trình nghiên cứu "Phương pháp âm carbon khai thác khoáng sản từ nước muối siêu mặn".
Công trình cung cấp một giải pháp đột phá cho những thách thức kép về xử lý nước muối thải và phát thải CO2liên quan đến khử mặn nước biển. Công trình nghiên cứu được đăng trên tạp chíApplied Catalysis B: Environmental and Energy, IF 20.2, Q1, Xếp hạng 1/81 lĩnh vực kỹ thuật môi trường.
7. TS Trương Hải Bằng (nghiên cứu viên, Viện Tiên tiến khoa học và công nghệ, Trường ĐH Văn Lang). Tác giả chính của công trình nghiên cứu "Tổng hợp xúc tác quang từ tính kích thích bởi vùng ánh sáng nhìn thấy CuFe2O4/Bi2WO6/mpg-C3N4 nhằm xử lý chất hữu cơ tổng trong nước.
Công trình đã được công bố trên Tạp chíChemical Engineering Journal(Impact factor: 16.7, H-index: 309, đứng đầu nhiều chuyên ngành hẹp theo thang điểm H-index của Scimago).
8. TS Phạm Thanh Tuấn Anh (Phó trưởng phòng Thí nghiệm vật liệu kỹ thuật cao, Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia TP.HCM). Tác giả chính của công trình "Nghiên cứu chế tạo vật liệu màng mỏng dựa trên nền ô xít kẽm ứng dụng chuyển hóa nhiệt thải dư thành năng lượng điện và bảo vệ môi trường".
Công trình đã được công bố và báo cáo tại các hội nghị quốc tế, quốc gia, trong đó có 12 công bố khoa học trên tạp chí quốc tế uy tín (11 bài xếp hạng Q1, 1 bài xếp hạng Q2) và vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, triển khai.
9. TS Nguyễn Viết Hương (Phó trưởng khoa Khoa học và kỹ thuật vật liệu, Trường ĐH Phenikaa). Tác giả chính của công trình nghiên cứu "Phát triển công nghệ lắng đọng đơn lớp nguyên tử (ALD) ở áp suất khí quyển".
Nhóm nghiên cứu công nghệ SALD đã và đang ứng dụng màng mỏng bán dẫn nano trong các linh kiện quang điện tử, cảm biến khí, pin năng lượng mặt trời, pin lưu trữ... Đặc biệt, việc tự chủ trong phát triển hệ thống thiết bị công nghệ cao cho lắng đọng màng mỏng nano không chỉ giúp tiết kiệm hàng tỉ đồng so với việc nhập khẩu thiết bị thương mại mà còn mở ra cơ hội lớn cho các hướng nghiên cứu mới và phục vụ công tác đào tạo. Đã công bố 23 công trình thuộc danh mục Q1 trên các tạp chí quốc tế uy tín liên quan đến công nghệ này.
10. TS Trần Ngọc Quang (nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu vật liệu cấu trúc nano và phân tử, ĐH Quốc gia TP.HCM), tác giả chính của công trình nghiên cứu "Generating Highly Active Oxide-Phosphide Heterostructure Through Interfacial Engineering to Break the Energy Scaling Relation Toward Urea-Assisted Natural Seawater Electrolysis".
Công trình này tiên phong trong việc kết hợp chất thải urê và nước biển tự nhiên để sản xuất nhiên liệu hydro xanh bằng công nghệ điện phân, góp phần tìm ra các giải pháp nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch hiện nay. Công trình được đăng trên tạp chíJournal of Energy Chemistry97 (2024) 687–699, IF: 14, Top 4 Electrochemistry.
End of content
Không có tin nào tiếp theo