Hành trình 80 năm đóng góp của ngành KH&CN qua góc nhìn nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân
Sàn giao dịch Khoa học và công nghệ Việt Nam vận hành chính thức từ tháng 11/2025 / Thu hút trí thức trẻ - động lực đổi mới hoạt động khoa học và công nghệ
Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, ông đánh giá thế nào về vai trò của ngành khoa học và công nghệ trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước?
Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân: Đảng và Nhà nước Việt Nam từ rất sớm đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã đặc biệt coi trọng đóng góp của các nhà khoa học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi các nhà khoa học hàng đầu, nhiều người trong số họ đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, trở về phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, điển hình như giáo sư Trần Đại Nghĩa và giáo sư Trần Hữu Tước, các chuyên gia công nghệ như Võ Quý Huân và Võ Đình Quỳnh.
Chính những nhà khoa học này đã có nhiều thành tựu đóng góp cho cuộc kháng chiến chống Pháp: các vũ khí như súng không giật, DKZ của giáo sư Trần Đại Nghĩa, cùng mạng lưới y tế phục vụ bộ đội của giáo sư Trần Hữu Tước, hay các lò đúc gang sản xuất vũ khí trong chiến khu của các chuyên gia như Võ Quý Huân và Võ Đình Quỳnh đã có những đóng góp vô cùng to lớn trong cuộc kháng chiến.

Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, Chính phủ đã thành lập các trường đại học để phát triển khoa học và công nghệ đất nước như Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Tổng hợp Hà Nội... và tới năm 1959, thành lập Ủy ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước (Ủy ban Khoa học nhà nước). Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ III (năm 1960), văn kiện của Đại hội đã xác định khoa học công nghệ là cuộc cách mạng then chốt, bên cạnh cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng tư tưởng văn hóa.
Để phát triển ngành khoa học công nghệ, Đảng, Nhà nước đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Việt Nam đã cử nhiều cán bộ đi đào tạo tại các quốc gia có trình độ khoa học công nghệ phát triển như Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu. Đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản này đã đóng góp rất lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các thành tựu đặc biệt quan trọng thời kỳ đó có thể kể đến như việc rà phá thủy lôi chống phong tỏa cảng Hải Phòng, xây dựng đường ống dẫn dầu từ Bắc vào Nam, cũng như cải tiến tên lửa SAM-2 để đánh máy bay B-52… Ngoài ra, Việt Nam cũng đạt nhiều thành tựu trong y tế và công nghiệp, nông nghiệp.

Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, vai trò của khoa học và công nghệ lại càng được coi trọng hơn nữa. Tại Đại hội Đảng lần thứ IV, V, VI, khoa học công nghệ không chỉ được xem là then chốt mà còn là nền tảng và động lực phát triển kinh tế xã hội.
Đặc biệt, sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, Nghị quyết Trung ương 2 đã xác định khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đến nhiệm kỳ Đại hội XI, Đảng đã có Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 (Nghị quyết 20) về phát triển khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, xác định khoa học công nghệ có vai trò dẫn dắt và là động lực chính để phát triển kinh tế-xã hội.
Gần đây nhất, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57). Để đạt được các mục tiêu như trong các Nghị quyết 20 và Nghị quyết 57 chỉ ra, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản như Luật Khoa học và Công nghệ 2000, Luật Khoa học và Công nghệ 2013 và Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo vừa được Quốc hội khóa XV thông qua; Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị định số 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập, Nghị định 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học công nghệ, Nghị định số 40/2014/NĐ-CP của Chính phủ về việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ, Nghị định số 95/2014/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ…
Sự đầu tư cho khoa học công nghệ trong thời gian qua đã mang lại những kết quả ra sao, thưa ông?
Nhờ xác định và tập trung đầu tư, những năm qua, khoa học công nghệ Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ.
Nếu như trong giai đoạn khó khăn, Việt Nam chỉ xếp hạng rất thấp trong top 80 thế giới về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII, thì hiện nay đã vươn lên vị trí thứ 44/135 thế giới, và mục tiêu đề ra là sẽ đạt thứ hạng 40 vào năm 2030, thậm chí có thể vươn lên top 35 thế giới.
Nhờ khoa học công nghệ, Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu về năng lực đổi mới sáng tạo trong nhóm 33 nước có thu nhập trung bình thấp.

Các chỉ tiêu về khoa học công nghệ như sáng chế, công bố quốc tế, giải pháp hữu ích và dịch vụ công nghệ như truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý đều có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với tốc độ trung bình trên dưới 20% mỗi năm, yếu tố năng suất tổng hợp TFP đạt trên 45%.
Hiện nay, Việt Nam đang phấn đấu có những sản phẩm công nghệ mang tính chiến lược. Nếu đầu tư thỏa đáng theo tinh thần Nghị quyết 57 (theo đó mục tiêu chi tối thiểu 3% tổng chi ngân sách hàng năm và đến năm 2030 phải có trên 2% GDP quốc gia đầu tư cho nghiên cứu phát triển, trong đó khu vực ngoài nhà nước chiếm trên 60%), Việt Nam sẽ có nhiều sản phẩm công nghệ chiến lược phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Các dự án công nghệ lớn về vi mạch bán dẫn, năng lượng hạt nhân, đường sắt cao tốc sẽ chỉ thành công nếu chúng ta làm chủ được công nghệ lõi, công nghệ nền.
Nhiều nước trên thế giới đang tập trung phát triển một số ngành chiến lược như trí tuệ nhân tạo, công nghệ số… Ông đánh giá thế nào về tiềm năng của Việt Nam trong một số ngành công nghệ cao hiện nay?
Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong những lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ số, ví dụ như vi mạch bán dẫn, máy bay không người lái, robot công nghiệp hay các nền tảng công nghệ số. Trí tuệ người Việt Nam rất phù hợp với các lĩnh vực về trí tuệ nhân tạo, về công nghệ số, về tự động hóa.
Vấn đề là chúng ta phải tháo gỡ cơ chế để ngân sách nhà nước cũng như đầu tư của doanh nghiệp trong những lĩnh vực này được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Trong danh mục công nghệ chiến lược mà Chính phủ đã phê duyệt, những lĩnh vực trên là những công nghệ chiến lược mà nhà nước cần phải quan tâm đầu tư và chắc chắn có cơ hội để phát triển.
Là một người gắn bó cả đời với khoa học công nghệ, ông có thông điệp gì nhắn gửi thế hệ các nhà khoa học trẻ trong dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh mùng 2 tháng 9?
Tôi mong các nhà khoa học trẻ sẽ tận dụng tối đa những cơ chế đột phá và ưu đãi của Nghị quyết 57 cũng như các nghị định, thông tư hướng dẫn để dám dấn thân, dám chấp nhận mạo hiểm, dám nhận nhiệm vụ khó, làm ra các sản phẩm công nghệ cao cho đất nước. Không có cuộc cách mạng nào mà không phải hi sinh!
Chúng ta phải chấp nhận thách thức, chấp nhận thất bại, nhưng khi đã làm chủ được công nghệ lõi, công nghệ nền chúng ta sẽ bứt phá, phát triển bền vững, để đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Xin cảm ơn ông!
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Xem nhiều nhất

Cần Thơ phấn đấu thành lập thêm 40-60 doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Phát triển công nghệ chiến lược: Mục tiêu và giải pháp
Phát hiện ‘người khổng lồ vô hình’ ẩn mình sau hố đen đôi
Những tin nhắn Zalo, Messenger, kiểu ảnh chuyên gia an ninh mạng khuyên bạn xóa ngay
Sự thay đổi bất ngờ trên hàng triệu điện thoại ở Việt Nam

Hành trình 80 năm đóng góp của ngành KH&CN qua góc nhìn nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân