Thị trường

Chuyên gia kinh tế người Việt ở Mỹ nói về suy thoái, khủng hoảng kinh tế toàn cầu do Covid-19 gây ra

DNVN - Tiến sĩ Trương Hồng Quang (BCS - Berlin Crisis Solutions từ CHLB Đức) đã có cuộc trò chuyện với Chuyên gia kinh tế Trần Quốc Hùng từ Washington DC, Hoa Kỳ về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu do Covid-19 gây ra ở Việt Nam và thế giới.

Bác sĩ người Việt ở Bệnh viện Hannover tiết lộ cách người Đức phòng và chống đại dịch Covid-19 / Tiến sĩ miễn dịch học tại Bệnh viện Đại học Würzburg bàn về dịch Covid-19 ở Đức và châu Âu

Cuộc phỏng vấn trực tuyến với chuyên gia kinh tế Hoa Kỳ về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu do COVID-19 gây ra ở Việt Nam và thế giới.

Cuộc phỏng vấn trực tuyến với chuyên gia kinh tế Hoa Kỳ về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu do COVID-19 gây ra ở Việt Nam và thế giới.

Trước hết xin được ông chia sẻ về tình tình hình dịch bệnh ở Hoa Kỳ nói chung và ở vùng ông sống nói riêng?

Chuyên gia kinh tế Trần Quốc Hùng: Tình hình Covid-19 đang lan truyền rất mạnh ở Mỹ cũng như châu Âu. Ở Mỹ có 104.256 trường hợp nhiễm bệnh và hơn 1.700 người tử vong. Trung tâm phát dịch đã chuyển từ Trung Quốc sang châu Âu, chủ yếu là Ý, Tây Ban Nha và Mỹ. Bên cạnh đó số lượng người nhiễm bệnh ở Iran cũng tăng rất cao. Trong các bang của Mỹ thì New York có nhiều ca nhiễm bệnh nhất là 44.000; ở California có 4.000 người; ở bang Washington khoảng 3.000 người. Đối với Mỹ, thời gian sau số người nhiễm bệnh sẽ còn tăng mạnh hơn. Nhưng nếu chúng ta thực hiện biện pháp cách ly hiệu quả thì sẽ giảm được số ca nhiễm bệnh mới.

Chiến lược này ảnh hưởng đến cuộc sống người dân Mỹ như thế nào?

Những tiểu bang như New York, Washington DC hay California lệnh cách ly tại nhà đã được người dân thực hiện vài tuần nay, số lượng đám đông tụ tập cũng giảm đi đáng kể. Rõ ràng chiến lược này có ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường. Chuyện cách ly hay ở trong nhà, tránh tụ tập đông người là cần thiết nhưng chưa đủ. Theo tôi, việc quan trọng nhất là phải thử nghiệm càng nhiều càng tốt thì mới phát hiện được những người phát bệnh ở đâu và đặc biệt những người nhiễm bệnh nhưng không có dấu hiệu: ho, sốt, khó thở.

Thời gian qua, các nhà khoa học đã nghiên cứu trong số những người nhiễm bệnh ở Trung Quốc cũng như các nước khác, số người nhiễm bệnh nhưng không có dấu hiệu chiếm tỉ lệ khá cao. Đây là nhóm người rất nguy hiểm vì họ mắc bệnh mà chính bản thân họ cũng không biết. Từ đó họ vẫn đi lại, tiếp xúc bình thường và vô tình đã trở thành nguồn lây bệnh cho cả cộng đồng. Nếu phát hiện ra những người đó thì phải thử nghiệm nhiều hơn. So với một số nước đã có kết quả tích cực về việc này, ví dụ như Hàn Quốc, thì số thử nghiệm ở Mỹ cũng như ở châu Âu vẫn còn ít so với số thử nghiệm cần có trên dân số trong nước. Chuyện này cần tiếp tục đẩy mạnh hơn. Sau khi thử nghiệm và phát hiện người nhiễm bệnh thì cơ sở y tế phải có biện pháp cách ly, chữa trị. Và quan trọng hơn là tìm được danh tính những người họ có tiếp xúc trong 2 tuần trước để phát hiện ra những người đó, thử nghiệm và cách ly nếu cần. Tôi nghĩ phải thực hiện biện pháp này thì mới giảm được sự lây lan của dịch bệnh.

Ông có thể mô tả những giai đoạn quan trọng nhất trong chính sách đối phó với dịch Covid-19 tại Hoa Kỳ từ trước đến nay? Có những giai đoạn chính nào đã trải qua? Chính phủ Hoa Kỳ hiện nay và các bang đang theo đuổi chiến lược và chương trình hành động cụ thể như thế nào?

Các bang phản ứng có phần bị động. Tôi nghĩ Mỹ đã lỡ cơ hội rất quan trọng khi Trung Quốc dịch bệnh đang phát triển rất mạnh trong thời điểm tháng 2 và đầu tháng 3 vừa qua. Từ đó tạo cho thế giới một cửa sổ khoảng 4-5 tuần để bắt đầu chuẩn bị tinh thần, các trang thiết bị y tế và khẩu trang để chủ động đối phó với dịch bệnh. Nhưng phương Tây, châu Âu và Mỹ có vẻ đã đánh mất cơ hội đó nên hiện nay các nước này phản ứng có phần bị động. Các tiểu bang có số nhiễm dịch tăng cao thì áp dụng biện pháp cô lập, cách ly, giới hạn giao tiếp,… nhưng rõ ràng vẫn thiếu rất nhiều thiết bị y tế quan trọng dành cho bác sĩ và y tá – những người tuyến đầu để phòng, chống dịch bệnh như là: khẩu trang, găng đeo tay, máy thở,… Tôi nghĩ cần phải cấp tốc tăng cường thiết bị y tế đó để giúp cho đội ngũ y bác sĩ có thể đối phó được với dịch bệnh.

Thứ 5 vừa qua (26/3/2020), Hội nghị Thượng đỉnh G20 (nhóm các nền kinh tế lớn) đã họp trực tuyến, bà Merkel - Thủ tướng Đức đang trong quá trình cách ly tại nhà riêng - cũng tham dự cuộc họp. Một trong những kết quả nổi bật trong buổi họp là đưa ra gói hỗ trợ gồm 5.000 tỉ USD. Chủ nhật tuần trước (22/3/2020), trên trang „Atlantic Council“ ông đã có một bài phân tích về những thách thức của đại dịch Corona đối với kinh tế toàn cầu. Ông cũng nêu ra 3 đòi hỏi đối với hội nghị. Ông có thể giới thiệu lại những quan điểm của ông và nội dung của 3 kỳ vọng ông đặt ra đối với Hội nghị Thượng đỉnh G20 này? Ông đánh giá như nào về kết quả của hội nghị vừa rồi, căn cứ vào những kỳ vọng, phân tích mà ông đã nêu ra?

Hội nghị Thượng đỉnh "ảo" hôm thứ 5 vừa rồi, kết quả cũng thể hiện qua tuyên bố chung. Kết quả tốt hơn kịch bản xấu nhất mà tôi đã nghĩ có thể xảy ra. Điều không đạt được kỳ vọng của tôi là Hội nghị chưa làm mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Hội nghị Thượng đỉnh đã tuyên bố một cách rõ ràng là cả thế giới sẽ hợp pháp vạch ra hoạch định tốt nhất để chống lại dịch Corona. Tôi nghĩ đây là phát biểu rõ ràng và rất cần thiết trong lúc này. Hội nghị cam kết sẽ chia sẻ kinh nghiệm, tin tức, dữ liệu để phòng, chống dịch, tăng cường sản xuất thiết bị y tế cần thiết và phân phối bình đẳng trên thế giới. Trong thời gian vừa qua có một số nước đã cấm vận và cấm xuất khẩu những dịch vụ, thiết bị y tế cũng như những nông phẩm cần thiết. Khi đó phát biểu này rất cần để chứng tỏ thế giới đoàn kết, hợp tác chống lại dịch bệnh.

Cuối cùng Hội nghị đã có một bước tiến nhỏ khi cam kết giữ thương mại được tiếp tục, vận chuyển hàng hóa đặc biệt là thiết bị y tế, nông sản. Tôi nghĩ đây cũng là tuyên bố rất quan trọng đối với các nước có chính sách cấm vận khiến cho kinh tế suy thoái và ảnh hưởng công tác chống dịch. Việc cần làm nhiều hơn mà thông cáo G20 chưa có đủ là thế giới đã tung ra quả kích cầu từ khoảng 5.000 tỉ USD. Điểm không vừa lòng đối với tôi là 5.000 tỉ USD giống như con số mà Hội nghị G20 năm 2009 ở London đã tung ra. 5.000 tỉ mười một năm trước khác với 5.000 tỉ hiện nay, sức đóng góp ít hơn so với cùng số lượng mười một năm trước. Điểm thứ hai là ảnh hưởng của Coronavirus tới kinh tế toàn cầu. Nó sẽ tạo ra một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu sâu, rộng mà rất lâu sau chúng ta mới bình ổn lại được, so với 2009. Tôi mong rằng các nước G20 tiếp tục tăng cường biện pháp kích cầu của mình để góp phần hạn chế ảnh hưởng xấu của dịch bệnh đối với kinh tế.

Trong bài phân tích, ông cũng đã nêu lên một trong những hành động cụ thể mà qua đó G20 có thể lấy lại uy tín của mình, như đẩy lùi thuế quan áp đặt trong cuộc chiến tranh thương mại trong thời gian vừa qua, đặc biệt giữa Mỹ và Hoa Kỳ. Đồng thời, ông cũng nói về thanh khoản đồng USD hiện nay và các ảnh hưởng của nó đối với các quốc gia, hệ thống tiền tệ trên thế giới. Ông có thể nói cụ thể thêm về hai vấn đề này?

Về thuế mậu dịch thì chưa có biện pháp gì rõ ràng, mạnh mẽ như tôi đề nghị. Vì nếu trong thời điểm này, các nước lớn như Mỹ và Trung Quốc đồng ý bỏ chiến tranh thương mại và đặt thuế mậu dịch trở lại nguyên trạng như 2 năm trước đây, tôi nghĩ đó là thông điệp rất quan trọng, giúp phục hồi lại sự tin tưởng của giới đầu tư cũng như doanh nghiệp thế giới. Nhưng thực tế thì chưa được như vậy. Trong phương thức tôi nêu lúc nãy đã có một số dấu hiệu rất nhỏ, nhưng đi đúng hướng và cần khuếch trương thêm. Ví dụ như Chính phủ Mỹ đang nghiên cứu và sắp tới sẽ giảm hoặc bỏ thuế mậu dịch đối với hàng hóa là thiết bị y tế hoặc dược phẩm. Trung Quốc trong 2 tháng vừa qua cũng đã giảm thuế mậu dịch cho một số mặt hàng. Những biện pháp này nên được đẩy mạnh thêm.

Kinh tế cũng như hệ thống tài chính của thế giới dựa vào đồng đô la rất nhiều; doanh nghiệp, chính phủ, ngân hàng thế giới (không phải Mỹ) đã vay tiền hoặc đầu tư vào USD. Tất cả những việc này, khi có dịch những giới đầu tư bán những tài sản mình có để đổi thành đồng USD, vì vậy đã tạo ra tình trạng khan hiếm USD đối với người dùng USD ở ngoài nước Mỹ. Cần có biện pháp giải quyết việc này, nếu không thì các doanh nghiệp, ngân hàng ngoài nước Mỹ phải sử dụng USD, mắc nợ đồng USD không chi trả và thanh toán được thì sẽ gây ra khủng hoảng doanh nghiệp, ngân hàng, cuối cùng làm cho khủng hoảng kinh tế nặng nề thêm.

Vừa rồi Cục dự trữ liên bang Mỹ đã có biện pháp trao đổi USD với các đồng tiền khác giữa Mỹ với 5 nước phát triển và 4 nước thị trường mới nổi. Đó là biện pháp đúng và cần thiết, nhưng lại không cung cấp thanh khoản cho đại đa số thế giới và các nước đang phát triển khác không thuộc 4 nước không có giao dịch với bên Mỹ. Tôi nghĩ đây là lúc G20 nên mạnh dạn ủng hộ, tăng cường khả năng cho vay của IMF (Qũy Tiền tệ Quốc tế), để có thể hỗ trợ và giúp các nước đang phát triển, thị trường mới nổi, và đặc biệt là các nước nghèo đang gặp khủng hoảng kinh tế rất khó khăn.

Luật 2.000 tỷ USD mà Chính phủ Mỹ vừa ban hành tăng nguồn tín dụng dự bị mà IMF có thể vay từ các nước từ 250 tỷ đôla lên 500 tỷ. G20 nên theo đà này và đồng ý các biện pháp nhằm tăng khả năng cho vay của IMF để có thể trợ giúp hữu hiệu hơn các nước chậm phát triển. Như vậy sẽ có dấu hiệu rất tích cực là cộng đồng thế giới có khả năng phối hợp, hoạt động nhanh giúp IMF tăng thêm vốn, từ đó giúp cho các nước đang phát triển và các nước nghèo. Quan trọng hơn cả là kêu gọi chung giữa IMF và Ngân hàng Thế giới. Đối với các nước nghèo với 76 nước đang cần sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới. Giờ họ đang gặp tình trạng rất khó khăn, trong năm nay họ phải trả nợ khoảng 40 tỷ USD đây là con số rất lớn đối với các nước nghèo. Vì vậy có khả năng giảm cho họ việc trả nợ trong năm nay. Tôi nghĩ đó là lời kêu gọi rất xác đáng mà G20 nên ủng hộ.

Ngày 18/3 vừa qua, cũng trên trang "Atlantic Council“, ông đã công bố một bài viết của về chủ đề đại dịch Corona và thị trường tài chính - chứng khoán hiện nay. Ông có nêu hiện tượng tháo khoán và bán tháo mạnh mẽ, dữ dội trên thị trường tài chính thế giới hiện nay như biểu hiện của suy thoái kinh tế toàn cầu và sự giảm sút niềm tin của nhà đầu tư. Trong bài báo ông cũng nêu những hiện tượng và đặt vấn đề rất thú vị, chẳng hạn cấu trúc thị trường mong manh hiện nay phụ thuộc nền tảng giao dịch điện tử với số lượng người chơi rất lớn; những nhà giao dịch cao tần thực hiện khối giao dịch khổng lồ trong khung thời gian nano giây nhưng với độ sâu thị trường thì rất ít. Đấy là những vấn đề cực kỳ thú vị, nhưng đối với những người không trong giới tài chính sẽ rất khó hiểu. Ông có thể chia sẻ thêm những nhận định của ông về ảnh hưởng của đại dịch Corona hiện nay và thị trường tài chính - chứng khoán không ạ?

Trong tuần vừa rồi, khi đại dịch bắt đầu lan ra các nước ở phương Tây, giới đầu tư đã phản ứng rất mạnh mẽ. Vì họ hoang mang không biết đại dịch sẽ lan tới đâu và ảnh hưởng như thế nào? Ảnh hưởng tới kinh tế ngày càng rõ ràng. Tức là hoạt động về giao thông vận tải, du lịch, dịch vụ, buôn bán,… bị giảm sút hết sức mạnh mẽ chưa từng thấy trong thời gian mấy chục năm vừa qua. Vì vậy họ đưa đến tình trạng muốn bảo vệ đồng vốn của mình và đổi thành tiền mặt, đồng đô la. Như vậy sức ép bán và không bên nào đứng ra mua tạo ra lỗ hổng làm cho giá cả giảm rất nhanh.

Trong thời gian vừa qua, ngân hàng ở Mỹ, châu Âu, các nước khác và quả kích cầu như ở Mỹ là 2.000 tỷ USD mới được Quốc hội thông qua và Tổng thống Trump ký thành luật đã thay đổi phần nào sự hoang mang và mất niềm tin. Bây giờ, giới đầu tư có thể nghĩ là sự trợ giúp của Ngân hàng Trung ương sẽ tạo ra thanh khoản cần thiết có thể giúp cho thị trường chứng khoán có thể tìm được đáy và bắt đầu ổn định. Như vậy chúng ta thấy mấy ngày trong tuần vừa rồi thị trường bắt đầu có dấu hiệu ổn định và tăng trưởng trở lại.

Chúng ta chờ xem trong tương lai sẽ như thế nào? Khả năng dịch bệnh Corona đã lên tới đỉnh chưa? Nếu dấu hiệu ở New York, Mỹ, Ý, Tây Ban Nha… cho thấy số nhiễm bệnh đã bắt đầu chậm lại, tức là nó đã lên tới đỉnh như ở Vũ Hán (Trung Quốc), Hồ Bắc mấy tuần trước. Nếu dịch bệnh Corona lên đến đỉnh thì thị trường chứng khoán cũng sẽ đạt đến đáy.

Thưa ông, một ngày trước khi Hội nghị G20 "ảo" diễn ra, Quốc hội Cộng hòa Liên bang Đức đã quyết định đưa ra gói cứu trợ gồm 156 tỷ EURO cùng với các biện pháp bảo lãnh và số tiền 600.000 tỷ EURO. Ngay sau Hội nghị Thượng đỉnh G20, EU cũng có cuộc họp Thượng đỉnh trực tuyến. Ông bình luận về chính sách kích cầu này của CHLB Đức, và ở phạm vi rộng hơn là của EU, như thế nào? Liệu điều ấy có thể đáp ứng được giữa những thách thức đặt ra trước mắt trong cuộc khủng hoảng hiện nay?

Gói kích cầu của Đức như vậy là tương đối chậm. Vì đáng lẽ nên làm sớm hơn, nhưng chậm còn hơn không. Quả kích cầu đó với tầm cỡ như vậy, tôi nghĩ là cũng có thể góp phần để ổn định phần nào tình trạng kinh tế suy thoái ở Đức. Nhưng điều cần quan tâm ở Liên minh châu Âu là những chính sách kinh tế như quả kích cầu nói chung xảy ra riêng lẻ từng nước một, Liên minh châu Âu không có một chính sách, một quả kích cầu tài chính chung để giúp cho cả khối.

Những nước Đức, phía bắc Liên minh châu Âu có khả năng tài chính tốt hơn, nền kinh tế tốt hơn. Như vậy khả năng dùng biện pháp kích cầu sẽ mạnh mẽ hơn những nước ở phía Nam của Liên minh như Ý. Việc Liên minh châu Âu không thể đồng ý có một kích cầu tài chính chung cho cả khối sẽ làm suy yếu tính đoàn kết và thắt chặt trong nội bộ châu Âu. Thêm vào đó, tại Trung Quốc, trong thời gian vài tuần vừa qua đã tăng cường chính sách ngoại giao khẩu trang, xuất khẩu, cho không khẩu trang, găng tay hay thiết bị y tế cho những nước có số lượng người nhiễm Covid-19 cao như Ý chẳng hạn. Tôi nghĩ chuyện này sẽ góp phần gây chia rẽ nội bộ các nước Liên minh châu Âu. Đây là điều không tốt.

Ngoài chính sách ngoại giao khẩu trang của Trung Quốc mà chúng ta đang quan sát hiện nay, nếu so sánh với những biện pháp kinh tế vĩ mô kích cầu của Liên minh châu Âu và của Hoa Kỳ ông đánh giá hiện nay Trung Quốc có chiến lược nào trong việc phục hồi kinh tế của họ và trong các biện pháp kinh tế vĩ mô họ đưa ra trong giai đoạn tới? Hiện nay hình như giai đoạn phong tỏa xã hội Trung Quốc đã tạm thời dừng lại. Họ bắt đầu mở cửa sản xuất bình thường. Ông đánh giá xu hướng phát triển kinh tế và những chính sách về kinh tế của Trung Quốc trong thời gian tới sẽ như thế nào?

Dịch bệnh phát triển qua 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu trung tâm là Trung Quốc, số người nhiễm bệnh và tử vong tăng rất cao. Trong vài tuần vừa rồi, trung tâm bệnh dịch đã chuyển sang Mỹ và châu Âu. Như vậy ảnh hưởng kinh tế rõ ràng là có 2 thời kỳ. Trong quý 1, ảnh hưởng đối với kinh tế Trung Quốc rất nặng. Những số liệu kinh tế trong những tháng giêng, tháng 2 vừa qua cho thấy là trong quý 1 tổng sản phẩm quốc nội giảm, có nhiều ngành kinh tế ước tính giảm tới 8% so với cùng kỳ năm trước ở Trung Quốc. Như vậy chính sách của Trung Quốc đối với vấn đề này là dùng mọi cách để cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước và những doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp nhỏ tiếp tục hoạt động trở lại, có biện pháp hỗ trợ để họ không sa thải nhân công, giảm số lượng thất nghiệp. Thứ hai là tăng cường đầu tư vào những cơ sở hạ tầng để một phần xây dựng cơ sở hạ tầng, một phần là tạo công ăn việc làm. Nhưng nói chung ảnh hưởng về kích cầu và tài chính của Trung Quốc tới nay rất nhỏ, chỉ 0,8% đối với tổng sản lượng trong nước. Trong khi đó ở Mỹ, nếu tính cả luật về 2.000 tỷ USD vừa thông qua ngày hôm qua và những biện pháp từ mấy tuần trước đây, thì kích cầu ở Mỹ đã chiếm khoảng 14% tổng sản lượng quốc nội, như vậy là rất lớn và đi đầu thế giới. Cho nên tôi nghĩ Trung Quốc cần phải tăng cường kích cầu hơn nữa.

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan của Việt Nam trong một bài báo gây sự chú ý rất lớn trên tờ Vietnamnet có nhận định rằng: Các gói cứu trợ khổng lồ đang đặt ra hiện nay, việc chạy đua hạ lãi suất có thể giúp cho các doanh nghiệp tạm né được nguy cơ phá sản hàng loạt, nhưng chưa thể đủ để phục hồi lại kinh tế. Liệu tất cả diễn biến hiện nay, vào thời kỳ hậu khủng hoảng Corona, sẽ có thể dẫn đến những suy nghĩ về việc thay đổi mô hình tăng trưởng hiện nay hay, hay về trào lưu toàn cầu hóa, với những hệ lụy rất lớn (như khủng hoảng thiếu khẩu trang, đồ bảo hộ y tế, do chúng đều chủ yếu đều sản xuất ở thị trường Trung Quốc). Vậy theo ông, những biện pháp hồi sinh kinh tế sắp tới sẽ như thế nào? Liệu chúng ta có thể hình dung đến một mô hình tăng trưởng khác, hay sẽ có sự thay đổi với xu hướng toàn cầu hóa sau đại dịch hay không?

Trong tình trạng khủng hoảng như hiện nay, kích cầu rất quan trọng, nhưng ta phải nhớ đó không phải chuyện trước mắt mà phải tính đến tình trạng diễn biến sắp tới. Ở Việt Nam, trong quý 1 vừa rồi, tổng sản lượng quốc dân giảm rất nhiều, từ khoảng 6-7% năm trước, còn 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy là giảm nhiều. Khả năng quý 2, quý 3 tiếp tục giảm rất lớn. Dịch bệnh và ảnh hưởng kinh tế chuyển từ Trung Quốc sang châu Âu, trong quý 1 kinh tế châu Âu vẫn giảm ít hơn so với châu Á, nhưng trong quý 2 sẽ giảm rất nặng nề. Ví dụ, Liên minh châu Âu, trong quý 1 ước tính giảm từ 0,6%, nhưng trong quý 2 có thể giảm tới 13% vì ảnh hưởng của dịch bệnh về kinh tế, ngừng trệ sản xuất và tiêu thụ sẽ ngày càng mạnh. Trong quý 2, tình hình dịch bệnh ở châu Á tương đối ít nguy cơ hơn so với quý 1, nhưng ảnh hưởng kinh tế suy giảm, nhu cầu tiêu dùng hàng xuất khẩu từ châu Á mà Việt Nam là nước có số lượng xuất khẩu rất lớn, xuất nhập khẩu gần bằng 200% của GDP. Cho nên ảnh hưởng kinh tế trong quý 2 sẽ rất mạnh mẽ.

Chúng ta phải đề phòng chuyện này. Tôi nghĩ đây là điều cần chú ý. Về vấn đề thay đổi mô hình toàn cầu hóa và những dây chuyền sản xuất: Rõ ràng trong 2 năm vừa rồi, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, còn bây giờ là ảnh hưởng của dịch bệnh Corona sẽ bắt buộc mọi người điều chỉnh để cho thích ứng những kinh nghiệm rất là tiêu cực mà chúng ta đã có trong thời gian vừa qua. Như vậy các nước phải nghĩ lại nếu lệ thuộc những mặt hàng có tính chất chiến lược, kể cả thực phẩm hay dược phẩm cần thiết vào một nước Trung Quốc, hay một nước nào khác, như thế có phải tốt hay không? Tôi nghĩ là sắp tới tất cả các nước phải rà soát lại chính sách kinh tế của mình để có thể đáp ứng thích hợp.

Ở phần cuối buổi nói chuyện ngày hôm nay, chúng ta nói về trường hợp của Việt Nam. Đầu năm vừa rồi, sau những quá trình đàm phán rất lâu dài, Hiệp định Thương mại tự do giữa EU và Việt Nam đã được phê chuẩn. Việt Nam có kỳ vọng rất lớn vào Hiệp định thương mại tự do này. Tuy nhiên sự suy thoái kinh tế của châu Âu cũng sẽ ảnh hưởng đến cả hoạt động và xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong giai đoạn khắc phục dịch bệnh Corona vừa rồi, Việt Nam đã có những thành công rất lớn. Nhưng chúng ta cũng được biết là hiện nay, Việt Nam đang bước sang giai đoạn hai, áp dụng những biện pháp phong tỏa, bởi vì dịch bệnh đã lan ra nhiều nơi. Như vậy hoạt động của người dân sẽ bị hạn chế tối đa, bên cạnh đó hoạt động kinh tế cũng sẽ bị hạn chế. Ông đánh giá những thách thức nào lớn nhất được đặt ra cho Việt Nam trên phương diện chính sách kinh tế?

Trong cả tháng 2 đến đầu tháng 3, số người nhiễm bệnh chỉ có 16 ca nhưng trong 3-4 tuần vừa rồi lại tăng đến hình như 169 trường hợp. Tôi nghĩ sắp tới Việt Nam phải có biện pháp quyết liệt, mạnh mẽ hơn, cách ly và giảm tiếp xúc, tụ họp… Có một việc Việt Nam làm ít hơn các nước xung quanh như Hàn Quốc là thử nghiệm những người bệnh, nhất là những người có thể bị nhiễm mà không có biểu hiện bệnh. Tôi nghĩ là cần phải thử nghiệm mới biết rõ tình trạng lan truyền của bệnh tới đâu.

Về chính sách kinh tế thì Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu là tốt và tích cực. Nhưng về trung hạn, dài hạn, Việt Nam cần chuyển hướng kinh tế một chút, vì bây giờ kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào xuất nhập khẩu ra thị trường thế giới rất lớn. Việt Nam là một nước trong những nước mở cửa lớn nhất thế giới, như tôi nói lúc nãy, tổng xuất - nhập trên GDP là khoảng 200%. Bình thường thì tốit nhưng nếu xảy ra sự cố, ví dụ như bệnh dịch lây lan, thì sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, giao thông, vận tải, xuất nhập khẩu sẽ suy sụp rất lớn. Nói chung nền kinh tế Việt Nam nên cân bằng hơn là phụ thuộc vào một ngành, vào xuất nhập khẩu. Vì vậy, Việt Nam nên phát triển sức cầu trong nước, gồm sức cầu tiêu thụ của nhân dân, cũng như sức cầu đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở. Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam rõ ràng cần được đầu tư nhiều hơn, để hiện đại hóa theo các yêu cầu của thế kỷ 21. Tôi nghĩ, thử thách rất quan trọng cho Việt Nam trong những năm sắp tới là làm sao để chuyển hướng kinh tế từ phụ thuộc vào xuất nhập khẩu trong giai đoạn phát triển vừa qua, sang giai đoạn mới là kinh tế được thúc đẩy bởi nội lực trong nước, bởi những đòi hỏi và nhu cầu ở trong nước, vừa tiêu thụ, vừa đầu tư ở trong nước.

Và ông có niềm tin là Việt Nam sẽ có thể thành công trong bước chuyển đổi như vậy ở thời gian sắp tới?

Nếu mọi người đưa ra những suy nghĩ và Chính phủ cũng vào cuộc, thì tôi nghĩ sẽ có biện pháp để thúc đẩy sự chuyển đổi này. Nếu không Việt Nam sẽ tiếp tục ở thế bị động trong phát triển kinh tế của thế giới.

Xin cảm ơn ông!

Lê Hằng (ghi)
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm