Khẩu súng máy “trường tồn với thời gian” của quân đội Mỹ
Đức đặt mục tiêu EU thông qua gói phục hồi kinh tế 750 tỷ euro / Hạm đội Thái Bình Dương Nga tập trận răn đe Nhật Bản
Súng máy M2 Browning, cỡ nòng .50 BMG (12.7×99mm chuẩn NATO) là một trong những vũ khí nổi tiếng nhất của quân đội Mỹ. Đây là khẩu súng ưa thích của các binh sỹ Mỹ trong mọi cuộc chiến tranh, kể từ khi nó được đưa vào hoạt động vào những năm 1920.
M2 Browning được coi là một trong những khẩu súng máy hạng nặng thành công nhất thế giới, với tốc độ khai hỏa 550 phát/phút và cũng có thể bắn phát một. Tầm bắn hiệu quả của nó là 1,8 km, còn tầm bắn tối đa lên tới 6,4 km.
M2 Browning vẫn giữ nguyên cấu tạo có từ thời Chiến tranh Lạnh, với bộ phận ngắm bắn bằng sắt, giá treo đơn giản và giá 3 chân được thiết kế dành riêng cho nó từ nhiều thập kỷ trước.
Tuy nhiên, khi Mỹ tăng cường các cam kết quân sự trên toàn cầu và thực hiện chương trình hiện đại hóa vũ khí, M2 đã phải thay đổi. Loại súng máy này đã trải qua nhiều đợt nâng cấp để cải thiện tính khả dụng, độ chính xác và độ tin cậy. Câu hỏi đặt ra là liệu những thay đổi đó có đủ để giúp nó hoạt động bền bỉ theo thời gian?
Đợt nâng cấp lớn nhất đối với súng máy M2 chuyển nó thành phiên bản M2A1 vào những năm 2000. Tiếp đến là phiên bản chuẩn để sử dụng cho hầu hết các mục đích M2HB, đây là phiên bản có chế độ làm mát bằng không khí và nòng nặng. M2HB được thiết kế khá hiện đại để có thể nhanh chóng thay nòng khi cần thiết. Công việc này cần nhiều thao tác, đòi hỏi phải điều chỉnh khoảng cách giữa bề mặt bulong và hộp đạn, cũng như lựa chọn thời điểm phù hợp.
Trong quá trình khai hỏa, điều này sẽ không tiện lợi vì quá trình chuyển đổi mất khá nhiều thời gian, tuy nhiên việc thay đổi nóng súng là cần thiết để tránh làm cho khẩu súng trở nên quá nóng.
Một vài thập kỷ sau đó, loại nòng có thể nhanh chóng được thay đổi đã trở nên phổ biến. Các loại súng máy MG34 và MG42 của Đức mà M2HB phải đối đầu trong Chiến tranh Thế giới thứ 2 đều sử dụng loại nòng hoán đổi nhanh chóng. Trong Chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã sử dụng súng máy cỡ nòng .50 caliber. Khẩu NSV của Liên Xô nhẹ hơn M2HB và nó cũng sử dụng loại nòng cải tiến này.
Dù vậy, thiết kế của M2HB không được sửa đổi để kết hợp các tính năng mới này. Cấu tạo giá treo và giá 3 chân tiếp tục được giữ nguyên. Sau đó, quân đội Mỹ đã tìm kiếm nhà thầu phát triển loại nòng có thể thay đổi nhanh chóng cho các mẫu M2 hiện có. General Dynamics đã được lựa chọn làm nhà sản xuất bộ nòng cho M2A1.
Ngoài việc thay đổi nòng súng, M2A1 còn được bổ sung thêm bộ phận hãm tia lửa, giúp che đi tia lửa do súng phát ra khi khai khỏa khiến người sử dụng khó bị phát hiện và giảm độ giật, đặc biệt giúp cải thiện khả năng nhắm bắn vào ban đêm. Phần mở rộng của nòng súng cũng được chế tạo bằng loại thép cứng hơn. Lục quân Mỹ và thủy quân lục chiến sau đó đã thay thế các mẫu M2HB bằng M2A1.
End of content
Không có tin nào tiếp theo