Mỹ chưa đủ khả năng, thiếu lực lượng ở Trung Đông để khai chiến tổng lực với Iran
Trước khi Iran sử dụng tên lửa tiến công các căn cứ của Mỹ ở Iraq, các lực lượng vũ trang Mỹ đã dự đoán được tình hình leo thang, nhưng để tiến công tổng lực Iran lúc này, Quân đội Mỹ ở Trung Đông chưa đủ lực lượng.
Nhiều binh sĩ Mỹ bị chấn động não sau vụ tấn công tên lửa của Iran / Thổ tung đòn hiểm sau khi Mỹ dọa áp đặt thêm lệnh cấm vận
Sau khi hai căn cứ quân sự của Mỹ ở Iraq bị tấn công bởi tên lửa Iran, quân đội Mỹ tại khu vực Trung Đông đã chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu lên cao nhất; sẵn sàng cho đòn trả đũa với Iran. Hiện nay, lực lượng quân đội Mỹ triển khai ở khu vực vùng Vịnh, chỉ có thể tiến hành những cuộc không kích quy mô trung bình vào một số mục tiêu quan trọng của Iran; mà chưa đủ lực lượng để mở cuộc tiến công quy mô lớn.
Lực lượng lớn nhất của Quân đội Mỹ tại vùng Vịnh hiện nay là biên đội tàu sân bay Truman, tàu này mang theo bốn phi đội máy bay chiến đấu F/A-18 Super Hornet (48 chiếc).
Trên tàu sân bay Truman có một phi đội máy bay cảnh báo sớm trên không E-2D (4 chiếc); số lượng này chỉ đủ khả năng chỉ huy những cuộc không kích vào lãnh thổ Iran với cường độ trung bình thấp.
Những tàu hộ tống và tàu ngầm hạt nhân tấn công của biên đội tàu sân bay Truman có thể phóng tên lửa hành trình Tomahawk; tuy nhiên số tên lửa Tomahawk phóng đi từ những tàu này chỉ đủ chế áp những mục tiêu quan trọng trên lãnh thổ Iran.
Về không quân, Mỹ hiện có 12 máy bay chiến đấu F-22 và 18 máy bay chiến đấu F-35 triển khai tại Căn cứ Không quân Udayd (Qatar) và Căn cứ Không quân Dafla tại UAE.
Ngoài ra, không quân Mỹ đã triển khai một số máy bay chiến đấu thế hệ 4 như F-15E, F/A-16, F/A-18 có khả năng mang số lượng vũ khí nhiều hơn tại một số căn cứ khác nhau ở Trung Đông.
Trước đó, để đối phó với tình hình bất ổn leo thang, không quân Mỹ đã điều 6 máy bay ném bom chiến lược B-52H tới căn cứ không quân Diego Garcia ở Ấn Độ Dương. Đây là căn cứ hỗ trợ chiến lược cho lực lượng Mỹ tấn công Trung Đông khi có tình huống chiến tranh xảy ra.
Với lực lượng không quân mỏng như vậy, Mỹ khó có thể mở những cuộc không kích ồ ạt như họ từng tiến hành trong quá khứ, như chiến tranh vùng Vịnh (lần 1, 2), chiến tranh Kosovo và cuộc chiến tại Afghanistan.
Nếu tình hình leo thang và quân đội Mỹ muốn mở rộng cuộc tấn công với quy mô lớn vào Iran, thì với lực lượng hiện tại là không đủ. Ví dụ, việc thiếu máy bay cảnh báo sớm trên không, nên lực lượng không kích chỉ có thể dựa vào bốn máy bay cảnh báo sớm E-2D trên máy bay USS Truman, rất khó cho công tác đảm bảo chỉ huy và tình báo.
Trong khi đó số lượng máy bay chiến đấu của Mỹ cũng chỉ ở số lượng tối thiểu, chưa đủ tạo thành thế áp đảo hoàn toàn với lực lượng phòng không và không quân Iran, nhất là việc thiếu máy bay chiến đấu tàng hình;
Do vậy hiệu suất tấn công ban đầu của Quân đội Mỹ sẽ hạn chế, khó có khả năng làm tê liệt hệ thống phòng không được đánh giá tương đối cao của Iran; không tạo được hành lang an toàn cho các loại máy bay không có khả năng tàng hình, có số lượng lớn như F-15, F-16 và F/A-18 bước vào chiến đấu.
Do đó, việc quân đội Mỹ có tăng cường lực lượng tại Trung Đông hay không phụ thuộc vào sự leo thang của tình hình. Nếu Tổng thống và Quốc hội Mỹ chấp thuận phương án tiến công Iran, Quân đội Mỹ tại khu vực Trung Đông sẽ được tăng cường thêm lực lượng,
Lực lượng đầu tiên cần tăng cường là máy bay cảnh báo sớm E-3A, có tính năng kỹ, chiến thuật lớn hơn nhiều so với máy bay cảnh báo sớm E-2D trang bị trên tàu sân bay.
Cùng với đó là Quân đội Mỹ sẽ điều thêm nhiều tàu sân bay; máy bay chiến đấu F-22, F-35 và máy bay ném bom tàng hình B-2, cũng sẽ được chuyển tới căn cứ quân sự Tiga của Mỹ ở Tây Á.
Tuy nhiên, những hoạt động di chuyển lực lượng lớn của Mỹ, dù bí mật thế nào thì tình báo Iran cũng có thể phát hiện được và có thời gian để sơ tán lực lượng ra những nơi đảm bảo an toàn và chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, hạn chế thiệt hại do những cuộc tiến công của Mỹ gây ra và chờ cơ hội phản công.
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Cột tin quảng cáo