Thị trường

Quý I/2015: Chỉ số môi trường kinh doanh ở Việt Nam giảm nhẹ

(DNVN) - Chỉ số môi trường kinh doanh ở Việt Nam giảm từ 78 điểm xuống còn 75 trong quý I/2015.

Đó là kết quả khảo sát chỉ số môi trường kinh doanh (BCI) lần thứ 18 do Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) thực hiện vào tháng 4/2015 tại Việt Nam vừa được công bố.
Dù qua khảo sát, niềm tin, triển vọng kinh doanh và kỳ vọng cho tương lai của các doanh nghiệp thành viên EuroCham có xu hướng giảm. Tuy nhiên, kết quả tổng quan trong khảo sát doanh nghiệp thành viên EuroCham vẫn thể hiện nhận định tương đối tích cực từ các doanh nghiệp đối với môi trường kinh doanh hiện tại và tương lai của Việt Nam. 
Cụ thể, số lượng phản hồi “tốt” giảm từ 52% ở quý trước xuống còn 45% quý này. Số lượng phan hồi “trung bình” gần như không thay đổi với 31%. 2% doanh nghiệp phản hồi đánh giá “Rất xấu”, khảo sát ở quý trước không có đánh giá này. Tuy nhiên, số lượng phản hồi “Rất tốt” cũng tăng đến mức 11%.

Quý I/2015: Chỉ số môi trường kinh doanh ở Việt Nam giảm nhẹ.
Quý I/2015: Chỉ số môi trường kinh doanh ở Việt Nam giảm nhẹ.

Tuy nhiên, phần lớn DN phản hồi tiếp tục nhận định triển vọng kinh doanh của họ là “tích cực” dù đã giảm từ 62% trong quý trước còn 57%. Chiếm tỷ lệ lớn thứ hai là các DN phản hồi “triển vọng trung bình”, tăng từ 28% quý trước lên 30%. Còn lại là các phản hồi “rất tốt” và “tốt”. 
Về triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam, 63% DN thuộc EuroCham nhận định tình hình kinh tế vĩ mô sẽ “ổn định và cải thiện”, tăng so với quý trước (59%). Tỷ lệ DN phản hồi “không thay đổi” tăng từ 20% đến 25%. Sự suy giảm đáng chú ý là số lượng DN phản hồi “Tiếp tục suy thoái” đã giảm từ 21% còn 12%. Các DN tham gia khảo sát dự đoán tỷ lệ lạm phát giảm nhẹ từ 5.78% xuống còn 5.25% trong 6 tháng tới.
Cũng theo kết quả khảo sát, số lượng DN chia sẻ dự định tăng số lượng nhân viên trong thời gian tới chiếm tỷ lệ 48%, trong khi 32% số DN cho biết sẽ giữ nguyên số lượng nhân viên so với mức hiện tại. Điều này cũng đúng đối với kết quả khảo sát về kế hoạch đầu tư trung hạn, khi mà nhóm DN phản hồi họ đang xem xét việc gia tăng đầu tư tại Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất là 41%. Tiếp theo là nhóm lớn thứ hai, gồm 35% DN dự định “duy trì mức độ đầu tư hiện tại”.
Đánh giá về những thay đổi của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, các doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam cho rằng doanh nghiệp biết có sự thay đổi nhưng không rõ những thay đổi cụ thể là gì. Theo khảo sát, 41% doanh nghiệp phản hồi không nắm bắt một cách rõ ràng, chi tiết về các luật mới của Việt Nam, 21% doanh nghiệp hoàn toàn không có thông tin liên quan.
Phần lớn DN mong đợi số lượng đơn hàng/doanh thu tăng nhẹ (lượng phản hồi tăng từ 56% lên 60%). 14% phản hồi họ mong đợi “gia tăng đáng kể” hoặc “duy trì” mức hiện tại. 65% DN tin rằng lạm phát sẽ tác động nhẹ đến tình hình kinh doanh của họ và 17% quan ngại tác động đáng kể. 1% cho rằng lạm phát đe dọa DN của họ. Chỉ có 7% phản hồi nhận định lạm phát không có tác động đến hoạt động kinh doanh. 
Theo bản đánh giá, khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam không dựa trên năng lượng giá rẻ. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các DN nước ngoài không đầu tư vào Việt Nam chỉ vì giá năng lượng được ghi nhận ở mức thấp.
Thực tế, các DN xếp hạng giá năng lượng là yếu tố ít quan trọng nhất trong 10 yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ tại Việt Nam. Theo đó, các yếu tố quan trọng hơn với nhà đầu tư gồm: chi phí, mức độ sẵn sàng của lao động có tay nghề, điều kiện thị trường nội địa và chính sách phát triển của Chính phủ. Khi được yêu cầu đánh giá tầm quan trọng đánh giá tầm quan trọng của giá năng lượng trong quyết định đầu tư (thang điểm 10), có 72% các công ty tham gia cho điểm từ 5 trở xuống.
Nhìn chung, các nhà đầu tư không lo ngại lắm về việc giá năng lượng đang có xu hướng tăng lên. Điều này cho thấy, các công ty nước ngoài tiêu tốn một chi phí tương đối không đáng kể cho điện. Theo nghiên cứu, có 90% công ty nước ngoài trong hầu hết các ngành chi ít hơn 10% trong tổng chi phí hoạt động cho điện, 60% công ty có chi phí cho điện thấp hơn 5%. Đa số công ty tham gia khảo sát cho biết họ sẵn sàng chịu mức tăng giá điện danh nghĩa hàng năm ở mức 15% hoặc hơn, trước khi cân nhắc lại các ý định đầu tư trong tương lai và trên 65% công ty có thể chấp nhận được mức tăng giá điện 10% mỗi năm.

HÒA HẬU
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo