Giảm số lần kê khai, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục, đơn giản hồ sơ đề nghị xóa nợ... là những lợi ích mà người nộp thuế được hưởng kể từ ngày 1/7 khi Luật Quản lý thuế (sửa đổi) có hiệu lực.
(chinhphu.vn) Ngày 20/11/2012, Quốc hội Khóa 13 thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế. Các nội dung của Luật sửa đổi, bổ sung đã khắc phục những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Quản lý thuế; cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo thuận lợi cho người nộp thuế; bổ sung những phương thức quản lý mới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế.
Luật sửa đổi, bổ sung liên quan đến 3 nhóm vấn đề lớn. Nhóm vấn đề về đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế, trong đó chủ yếu liên quan đến các nội dung sửa đổi theo yêu cầu của Nghị quyết số 57/2010/QH12 của Quốc hội; Nghị quyết số 25/NQ-CP, Nghị quyết số 68/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ.
Nhóm vấn đề về phục vụ mục tiêu cải cách, hiện đại hoá và hội nhập, phù hợp thông lệ quốc tế.
Nhóm vấn đề về nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý thuế để phù hợp với thực tế và phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan nhằm chống thất thu ngân sách, giảm nợ đọng thuế.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế trong thực hiện nghĩa vụ thuế.
Giảm thủ tục, thêm lợi ích
Thứ nhất, giảm tần suất kê khai thuế giá trị gia tăng từ 12 lần/năm xuống còn 4 lần/năm đối với người nộp thuế quy mô vừa và nhỏ.
Nghị quyết số 57/2010/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 25/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ yêu cầu tạo thuận lợi cho người nộp thuế quy mô nhỏ và vừa (bao gồm doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ, cá nhân kinh doanh) được kê khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) 3 tháng/lần, các doanh nghiệp lớn kê khai thuế GTGT 1 tháng/lần.
Luật hiện hành chỉ quy định khai theo tháng, theo năm, tạm tính theo quý hoặc theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế, chưa có quy định khai theo quý.
Vì vậy, Luật bổ sung tại Điều 31 về hồ sơ khai thuế theo quý và các nội dung liên quan đến việc khai thuế theo quý tại Khoản 1 Điều 32 (thời gian khai thuế), Khoản 2 Điều 33 (thời gian gia hạn nộp hồ sơ khai) cho phù hợp và giao Chính phủ quy định tiêu chí xác định người nộp thuế để kê khai theo quý.
Thứ hai, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế. Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ về việc rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế từ 5 ngày làm việc xuống 3 ngày làm việc, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 33 về gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo hướng rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế để đáp ứng nội dung này.
Thứ ba, thay tờ khai quyết toán thuế trong hồ sơ đề nghị xóa nợ đối với trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Luật hiện hành quy định trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì hồ sơ xoá nợ tiền thuế phải có tờ khai quyết toán thuế. Trong trình tự xử lý phá sản, cơ quan thuế đã tham gia xác định các khoản nợ thuế và quyết định tuyên bố phá sản của Toà án là quyết định có hiệu lực pháp lý.
Để giảm thủ tục hành chính và phù hợp với quy định của pháp luật về phá sản, Luật sửa đổi Khoản 2 Điều 66 theo hướng quy định hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt đối với trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản sẽ sử dụng quyết định tuyên bố phá sản thay cho tờ khai quyết toán thuế.
Bổ sung trường hợp gia hạn nộp thuế
Điều 49 Luật hiện hành quy định các trường hợp được gia hạn nộp thuế bao gồm: (1) Bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh do gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ; (2) Không có khả năng nộp thuế đúng hạn do gặp khó khăn đặc biệt khác theo quy định của Chính phủ.
Nghị định số 85/2007/NĐ-CP và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Quản lý thuế có quy định chi tiết thêm các trường hợp cụ thể theo Khoản 2, Điều 49 của Luật nêu trên.
Có ý kiến đề nghị đánh giá thực tiễn áp dụng các trường hợp được gia hạn nộp thuế để Luật hoá đối với một số trường hợp quy định tại Nghị định có tính chất ổn định lâu dài và phổ biến.
Qua rà soát với mục tiêu từng bước cụ thể hoá quy định của Luật đồng thời đảm bảo tính ổn định, Luật bổ sung việc gia hạn nộp thuế tại Khoản 1, Điều 49 đối với trường hợp: Phải ngừng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh; Chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng đã được ghi trong dự toán ngân sách Nhà nước.
Như vậy, về cơ bản Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đáp ứng mục tiêu đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch nhằm tạo thuận lợi, giảm chi phí, thời gian của người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Dù Luật mới được ban hành nhưng những nội dung này tại Luật đã đón nhận sự đồng thuận, ủng hộ mạnh mẽ của người nộp thuế, góp phần vào thành công của công tác cải cách thủ tục hành chính nước ta thời gian qua.
Cao Anh Tuấn