Chính sách

Phát triển thị trường khí hóa lỏng: Doanh nghiệp "ngóng" cơ chế đặc thù

DNVN - Các chuyên gia đề xuất sớm hoàn thiện chính sách, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào dự án điện khí LNG trong nước; giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp đầu tư phát triển năng lượng để thúc đẩy đầu tư; cần hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế quản lý để tạo điều kiện thu xếp tài chính cho các dự án quy mô hàng tỷ USD...

Khẩn trương xây dựng phương án cắt giảm, đơn giản hoá điều kiện kinh doanh / Hà Tĩnh: Hạ tầng khu kinh tế Vũng Áng và các khu công nghiệp ven biển chưa đồng bộ

Nhập khẩu LNG là tất yếu

Nghị quyết 55/NQ-BCT của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra yêu cầu phải chú trọng phát triển nhanh chóng nhiệt điện khí LNG, đồng thời phải ưu tiên phát triển hạ tầng nhập khẩu và phân phối LNG.

Quy hoạch điện VIII đặt ra mục tiêu đến năm 2030 tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước là 150.489 MW và định hướng đến năm 2050, tổng công suất các nhà máy điện cần đạt 490.529 - 573.129 MW.

Trong đó, cơ cấu nguồn nhiệt điện khí trong nước và LNG đến năm 2030 sẽ đạt 37.330 MW, tương ứng 24,8% tổng công suất nguồn điện, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn điện.

Tại diễn đàn phát triển thị trường khí Việt Nam với chủ đề: “Phát triển điện khí LNG - Xu hướng tất yếu trong chính sách bảo đảm an ninh năng lượng” ngày 22/11 tại Hà Nội, ông Huỳnh Quang Hải - Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV Gas) cho biết, với cơ cấu nguồn điện hiện nay, cùng với định hướng đến năm 2050 không còn sử dụng than cho phát triển điện thì vai trò chạy nền của các nhà máy điện khí trong hệ thống điện là tất yếu.

Theo Quy hoạch điện VIII, sẽ có 15 dự án nhà máy nhiệt điện LNG nằm phân bố rải rách trên cả nước. Trong đó, chỉ tính đến năm 2030, để đáp ứng khí cho 13 dự án nhiệt điện LNG với tổng công suất 22.400 MW, mỗi năm cần tổng công suất kho chứa đạt khoảng 15-18 triệu tấn LNG. Trong khi hiện nay, Việt Nam chỉ có duy nhất 1 dự án kho chứa LNG tại Thị Vải với công suất 1 triệu tấn LNG/năm.


Ông Huỳnh Quang Hải - Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV Gas).

Do vậy, theo ông Hải cũng như nhiều diễn giả khác, việc nhập khẩu LNG cho sản xuất điện là xu hướng tất yếu. Việc nhập khẩu không chỉ để cung cấp cho các dự án điện khí LNG mới, mà còn cấp thiết bù đắp nguồn khí cho các nhà máy điện khí hiện hữu có nguy cơ bị thiếu hụt nhiên liệu trong tương lai, khi các mỏ khí khai thác trong nước đang suy giảm nhanh qua từng năm.

Theo tính toán, nhu cầu nhập khẩu LNG sẽ tăng lên, đạt khoảng 14 -18 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 13 - 16 tỉ m3 vào năm 2045.

Thách thức về giá

Ông Bùi Quốc Hùng - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) đánh giá, trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi khó lường, giá nhiên liệu khí hóa lỏng biến động thất thường và thường chiếm tỷ lệ từ 70-80% giá thành điện năng sản xuất, nên việc xây dựng cơ chế giá phù hợp để thích nghi với những thay đổi giá nhiên liệu, nhưng không tác động quá lớn tới giá bán lẻ điện là thách thức rất lớn với Việt Nam. Trên thực tế, giá khí hoá lỏng LNG đã tăng rất mạnh thời gian qua.

Giá nhập khẩu cao là trở ngại trong tương lai khi ký các hợp đồng mua bán điện (PPA) giữa chủ đầu tư và EVN, do EVN phải mua điện giá cao và bán điện giá rẻ.


Ông Bùi Quốc Hùng - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương).

Cùng góc nhìn, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long chia sẻ, sự biến động của giá LNG thế giới hiện nay và khó dự đoán trong tương lai khiến việc triển khai dự án gặp thách thức lớn, do đầu vào của các dự án điện khí LNG phụ thuộc hoàn toàn vào khí LNG nhập khẩu.

“Hiện khó khăn vướng mắc chính ảnh hưởng đến việc triển khai các dự án LNG vẫn là việc đàm phán giá điện và bao tiêu sản lượng hằng năm. Nếu “vướng mắc” này không được tháo gỡ kịp thời, kế hoạch phát triển điện khí LNG sẽ rất khó thực hiện. Nếu không đàm phán được PPA sớm thì sẽ rất khó khăn trong việc triển khai dự án LNG theo đúng kế hoạch được giao.

Trạng thái này tiếp tục tiếp diễn thì trọng trách "mũi nhọn của nền kinh tế" và bảo đảm an ninh năng lượng... sẽ đặt trong tình trạng đáng lo”, chuyên gia nhìn nhận.

Tại diễn đàn, các diễn giả cũng nhấn mạnh đến khó khăn về vốn đầu tư, vấn đề cơ chế chính sách trong phát triển LNG như chưa ban hành khung giá phát điện cho các nhà máy điện khí hóa lỏng, hay khung pháp lý cho các dự án khí hóa lỏng chưa hoàn thiện…

Ông Huỳnh Quang Hải - Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV Gas) phản ánh, hiện chưa có cơ chế chuyển ngang giá khí LNG tái hóa từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện, phê duyệt cước phí qua kho và đường ống đưa LNG đến nhà máy điện, nguyên tắc phân bổ LNG nhập khẩu cùng với các nguồn khí nội địa cho các nhà máy điện.

Cần cơ chế đặc thù cho LNG

Từ thực trạng trên, Phó Tổng giám đốc PV Gas Huỳnh Quang Hải kiến nghị Chính phủ xây dựng cơ chế chuyển ngang giá khí LNG tái hóa và bao tiêu khối lượng khí từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện.

Bên cạnh đó, để tối ưu đầu tư hạ tầng kho chứa, cảng biển các cơ quan quản lý cần xem xét triển khai xây dựng các kho LNG theo mô hình “Kho cảng LNG trung tâm cung cấp cho các trung tâm nhiệt điện vệ tinh”. Đồng thời, cần lựa chọn chủ đầu tư có đủ năng lực về tài chính và kinh nghiệm để triển khai thực hiện hiệu quả các dự án trong quy hoạch.


Chuyên gia Ngô Trí Long đề xuất giải pháp phát triển thị trường LNG.

Chuyên gia Ngô Trí Long đề xuất sớm hoàn thiện chính sách, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào dự án điện khí LNG trong nước. Giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp đầu tư phát triển năng lượng để thúc đẩy đầu tư cũng là điều đáng lưu tâm.

Trong khi đó, theo PGS, TS Đinh Trọng Thịnh - chuyên gia kinh tế Học viện Tài chính, đã đến lúc cần hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế quản lý cho các dự án đầu tư điện khí LNG theo hình thức đầu tư thông thường để tạo điều kiện thu xếp tài chính cho các dự án điện khí LNG quy mô hàng tỷ USD.

Ông Bùi Quốc Hùng cho rằng, đến thời điểm này, khó khăn và thách thức trong phát triển LNG vẫn còn rất nhiều. Do đó, Chính phủ cần phê duyệt kế hoạch, vận hành cơ chế đặc thù để tháo gỡ khó khăn. Địa phương cần tháo gỡ vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng, chủ trương đầu tư…

Về điều chỉnh một số chính sách liên quan đến Thông tư 57, Thông tư 35…, Bộ Công thương không đủ thẩm quyền, mà cần phải trình cấp có thẩm quyền, thậm chí phải trình Quốc hội, Bộ Chính trị, để có những cơ chế đặc thù cho điện khí LNG, bởi nếu không sẽ rất khó triển khai.

Thu An
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm