FDI vào nông nghiệp ngày càng giảm
Thấp về tỷ trọng, nhỏ về quy mô cũng như sự phân bổ thiếu đồng đều… là bức tranh chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực nông nghiệp (NN) trong nhiều năm qua.
Liên tục giảm
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch Đầu tư, nếu năm 2001, FDI vào NN chiếm 8% tổng vốn FDI vào Việt Nam thì đến năm 2006 con số này chỉ còn 7,4%, năm 2007 còn 5,37%, năm 2008 là 3% và các năm 2009, 2010, 2011 chỉ còn 1% (xem biểu đồ).
Tính đến tháng 6-2012, lũy kế các dự án đầu tư FDI vào lĩnh vực NN vừa tròn 500 dự án trong tổng số gần 14.000 dự án FDI (chiếm 3,6% tổng số dự án) với tổng số vốn đầu tư gần 3,3 tỷ USD. Năm 2012, Việt Nam thu hút được 13,013 tỷ USD vốn FDI thì chỉ có 87,8 triệu USD vào NN.
Báo cáo của Bộ NN&PTNT cũng chỉ ra rằng, mặc dù tỷ trọng FDI cả nước có xu hướng tăng, nhưng trong thời gian qua, dòng vốn FDI vào lĩnh vực nông-lâm-thủy sản còn hạn chế, quá nhỏ cả về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng FDI của cả nước, chưa xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh phát triển nông nghiệp của Việt Nam. Cụ thể, tỷ trọng FDI vào lĩnh vực nông-lâm-thủy sản giảm từ 9,4% trong giai đoạn 1988 - 1990 còn 1,6% giai đoạn hiện nay.
Mặc dù, trong tổng thể chính sách thu hút FDI, NN và phát triển nông thôn luôn được coi là lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, song so với hoạt động FDI trong các lĩnh vực khác, hiệu quả thực hiện các dự án trong lĩnh vực nông-lâm-thủy sản còn rất hạn chế, tỷ trọng FDI vào nông nghiệp còn thấp, thiếu ổn định và có xu hướng giảm trong khi xu thế FDI vào nông nghiệp của thế giới đang ngày một tăng.
Điều đáng nói là, không chỉ đầu tư ít về tỷ trọng, phân bổ vốn FDI trong NN cũng không đồng đều. Nếu như đầu thập kỷ 90, FDI tập trung chủ yếu vào các dự án chế biến gỗ và các loại lâm sản thì từ những năm 1995 đến nay, FDI có sự chuyển hướng sang đầu tư vào lĩnh vực trồng trọt, chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất đường mía, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy, dịch vụ hậu cần kho lạnh, vận chuyển…
Từ năm 2010, Việt Nam đưa ra tiêu chí mới về phân loại lại nhóm ngành, do đó các dự án FDI chế biến trong lĩnh vực nông-lâm-thủy sản ghép lại với các dự án FDI chế biến khác. Theo cách phân loại mới, số lượng dự án FDI ngoài trong lĩnh vực NN ngày càng giảm. Tính đến tháng 12-2011, số lượng dự án lũy kế các dự án trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp còn hiệu lực là 495 dự án với số vốn đầu tư đăng ký là 3,2 tỷ USD.
Nguyên nhân từ nội tại
Báo cáo của Bộ NN&PTNT chỉ ra rằng, nguyên nhân chính dẫn tới đầu tư FDI vào NN nghèo nàn là do đầu tư vào NN mang tính rủi ro cao, chịu ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết, bệnh dịch, sử dụng nguồn lực đất đai lớn. Bên cạnh đó, đầu tư vào NN có lợi nhuận thấp, tốc độ và thời gian thu hồi vốn chậm. Hiện nay có một thực trạng đó là DN FDI không đầu tư và sản xuất kinh doanh mà tập trung vào XK, NK và phân phối các sản phẩm NN.
Ngoài ra, NN của Việt Nam còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, ruộng đất manh mún, đầu tư phân tán, thiếu tính chuyên môn, mâu thuẫn với lực lượng sản xuất mới đòi hỏi một nền sản xuất công nghiệp có năng suất cao, sản xuất tập trung và đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn của thị trường quốc tế.
Một trong số các nguyên nhân nữa là công tác vận động xúc tiến FDI vào lĩnh vực NN và phát triển nông thôn chưa có hiệu quả, thiếu cả về nguồn lực cũng như kinh phí để triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư cho lĩnh vực NN, chưa kết nối toàn quốc và danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư trong ngành. Cùng với đó, định hướng thu hút chính sách FDI vào lĩnh vực nông-lâm-thủy sản và phát triển nông thôn chưa đồng bộ và thiếu rõ ràng, chưa thực sự hấp dẫn Nhà đầu tư nước ngoài vào ngành NN.
Đồng tình với quan điểm trên, chuyên gia kinh tế cấp cao Phạm Chi Lan cho rằng: Trước hết, đầu tư vào NN bao giờ cũng rủi ro. Cho nên, ngay cả các DN tư nhân Việt Nam cũng ngại đầu tư vào NN chứ không chỉ các nhà đầu tư nước ngoài. Với điều kiện tự nhiên như ở Việt Nam thì rủi ro trong đầu tư NN còn cao hơn nữa với những thiên tai, lũ lụt, mất mùa, dịch bệnh nhiều… Bên cạnh đó, giá cả NN Việt Nam biến động rất phức tạp, chủ yếu là bất lợi cho phía người nuôi trồng, sản xuất. So với lợi nhuận đạt được ở các lĩnh vực khác như công nghiệp, dịch vụ thì bao giờ lợi nhuận từ NN cũng thấp hơn khiến các nhà đầu tư e ngại.
Bà Lan khẳng định thêm, một trong số các nguyên nhân quan trọng nữa là những năm qua, mặc dù Nhà nước đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ, thu hút FDI vào NN, nhưng bản thân các tổ chức NN của Việt Nam còn khá manh mún, tản mạn. Theo bà Lan, mặc dù một số ngành nông nghiệp của Việt Nam cộng lại có thể có giá trị XK lớn như lúa gạo, cà phê, thủy sản… nhưng muốn tổ chức để thành ngành sản xuất quy mô lớn, tạo ra giá trị gia tăng cao thì chưa làm được. Vì vậy, nếu như các nhà đầu tư nước ngoài muốn tham gia đầu tư cũng rất khó khăn.
Ngoài ra, trong các quy định của Việt Nam còn những hạn chế nhất định. Ví dụ như, quy định về thời hạn sử dụng đất của nông dân chỉ trong vòng 20 năm, khiến cho nhà đầu tư nước ngoài không dám bỏ vốn để đầu tư sâu rộng vì sợ khả năng thu hồi vốn thấp…
Công Duy
Theo HQO
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Cột tin quảng cáo