1 năm thực hiện CPTPP: Hai vấn đề lớn với Chính phủ và doanh nghiệp
DNVN - Yêu cầu hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực cạnh tranh cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam được các chuyên gia cho là vấn đề đáng quan tâm nhất trong bối cảnh Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã được triển khai trong hơn 1 năm qua tại nước ta.
FTA thế hệ mới và cơ hội đối với Việt Nam / Nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu theo hạn ngạch thuế quan cam kết tại Hiệp định CPTPP
Thông tin này đã được đưa ra tại Hội thảo "Thực hiện hiệu quả Hiệp định CPTPP trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam" do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức sáng 19/02/2020 tại Hà Nội.
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/01/2019. Hiệp định này được kỳ vọng tạo thêm xung lực mới cho phát triển thương mại và đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa cải cách kinh tế tại Việt Nam.
DN còn quá quan tâm những vấn đề ngắn hạn
Trình bày báo cáo về thực hiện Hiệp định CPTPP sau 1 năm triển khai, ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp - CIEM, cho biết: Hiệp định CPTPP ít nhiều đã có đóng góp tích cực vào hoạt động thương mại của Việt Nam. Với khối nước CPTPP, tỷ trọng XK của Việt Nam chiếm gần 30,2% giai đoạn 2007 - 2008 nhưng giảm dần xuống 23% giai đoạn 2009 - 2010 và 18% giai đoạn 2011 - 2018.
Trong năm 2019 - năm đầu tiên thực hiện CPTPP, kim ngạch XK của Việt Nam sang 6 nước thành viên đã phê chuẩn Hiệp định đạt 34,4 tỷ USD, tăng 8,3%, trong khi kim ngạch NK đạt 30,1 tỷ USD, chỉ tăng 1%.
Tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các FTA của Việt Nam đạt khoảng 39% năm 2018 - 2019. Hiệp định CPTPP mới bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2019, do đó tỷ lệ tận dụng ưu đãi chưa cao ở một số mặt hàng, thị trường.
Tuy nhiên, theo ông Dương, hiệu quả thực thi và khả năng tận dụng những lợi ích tiềm năng của CPTPP còn phụ thuộc vào năng lực thể chế và năng lực của doanh nghiệp trong nước.
Ở cấp độ doanh nghiệp (DN), Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM cho rằng, các DN ít nhiều đã có sự quan tâm, tìm hiểu về CPTPP. Dù vậy, DN còn phải điều chỉnh, xử lý một số vấn đề quan trọng để sẵn sàng hơn đối với CPTPP.
Toàn cảnh hội thảo.
Cụ thể, về mức độ hiểu biết, các DN còn quá lưu tâm đến những vấn đề ngắn hạn; mới chỉ hiểu về thuế quan và cắt giảm thuế quan, chứ chưa thực sự hiểu đầy đủ và có hệ thống về các khía cạnh khác như quy tắc xuất xứ, SPS, TBT... và thiếu thông tin về mạng lưới nhà cung cấp trong và ngoài nước.
Về năng lực khoa học công nghệ, tỷ lệ sử dụng công nghệ cao, đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và triển khai, và cải tiến công nghệ còn rất thấp.
Trình độ và kỹ năng của người lao động trong khu vực DN; trình độ đội ngũ quản lý, lãnh đạo DN còn hạn chế. DN Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, dù đã có cải thiện quan hệ cung ứng cho DN FDI.
DN Việt Nam có cơ hội không nhỏ từ CPTPP: mở rộng thị trường, gia tăng XK, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; Tiếp cận công nghệ, kỹ năng quản lý nước ngoài; Cải thiện hiệu quả hoạt động khi thể chế kinh tế thị trường trở nên hoàn thiện hơn.
Tuy vậy, DN cũng phải xử lý hiệu quả những thách thức, đặc biệt trong việc cải thiện khả năng cạnh tranh; khả năng tận dụng cơ hội, đặc biệt là hài hòa việc thực hiện CPTPP với các tuyến hội nhập khác.
Tác động của thể chế có ý nghĩa quan trọng
Một nội dung quan trọng nữa trong báo cáo của CIEM, đó là vấn đề cải cách thể chế. Quá trình thực hiện và triển khai CPTPP trong thời gian qua ghi nhận những nỗ lực nhất định của Nhà nước trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý, thể chế theo cam kết FTA. Những chính sách phát triển DN đáng chú ý của Nhà nước là khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân; cải cách DN Nhà nước; cải cách về thu hút FDI, khuyến khích chuyển giao công nghệ và quan hệ cung ứng giữa DN FDI và DN trong nước; điều chỉnh về chính sách hỗ trợ DN tiếp cận nguồn lực và nâng cao năng lực cho DN...
Tuy vậy, ông Dương cho rằng, những nỗ lực này vẫn còn khoảng cách so với thông lệ tốt của quốc tế. Điều này đặt ra yêu cầu cải cách thể chế chính sách thương mại nhằm cải thiện mức độ tận dụng ưu đãi từ các FTA, tận dụng cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, tận dụng cơ hội gia tăng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, hỗ trợ DN hội nhập và thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế, thông tin và tham vấn doanh nghiệp nhằm hỗ trợ DN hội nhập và thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế.
Thực tế việc triển khai CPTPP trong hơn 1 năm qua cũng đặt ra yêu cầu cải cách thể chế. Đó là thể chế đầu tư; ổn định kinh tế vĩ mô; chính sách ngành/chính sách công nghiệp; thể chế liên quan tới các biện pháp phi thuế quan, sở hữu trí tuệ; thể chế về phòng ngừa và ứng phó với các vụ kiện thương mại, đầu tư; tận dụng không gin chính sách nhằm khuyến khích sự tham gia, sáng tạo của DN.
Bình luận về báo cáo của CIEM, TS.Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh cho biết, báo cáo đã đề cập đến 2 vấn đề lớn trong khi thực hiện CPTPP, đó là phản ứng của Chính phủ cũng như DN, và đằng sau đó là kỳ vọng về thúc đẩy thể chế.
Nhấn mạnh đến vấn đề thực thi thể chế, TS. Võ Trí Thành cho rằng, Việt Nam Việt Nam cam kết nhiều nhưng thực thi chưa tốt. Đây là điểm mà nhiều nhà đầu tư cho là điểm yếu nhất.
Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI cho biết, tác động của thể chế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong bối cảnh CPTPP đã được triển khai trong hơn 1 năm qua.
Theo bà Trang, với Việt Nam, CPTPP là tiêu chuẩn và định hướng cho cải cách của bởi nó đề cập cả vấn đề mới và truyền thống, đề cập cả những vấn đề không thuộc thương mại và đầu tư như lao động. CPTPP tạo ra sức ép cho chúng ta cải cách. Nhưng CPTPP cũng là động lực cho Việt Nam cải cách.
"Trong 1 năm vừa qua, về góc độ thể chế có thể nói là quá ngắn nhưng cũng cho thấy những vấn đề về cải cách thể chế chưa được như kỳ vọng của DN. Những cam kết của cơ quan quản lý Nhà nước đến nay vẫn chỉ là kỳ vọng. Nhiều quy định, cam kết về thể chế được đưa vào thực tiễn quá muộn. Đơn cử như cho đến nay vẫn chưa có nghị định quy định về đấu thầu", bà Trang nêu.
Đánh giá cao báo cáo cũng như ý kiến của các chuyên gia, TS. Lê Đăng Doanh - nguyên Viện trưởng CIEM cho biết, đây là những đóng góp ý nghĩa và thiết thực trong công cuộc cải cách thể chế của Việt Nam. Tuy nhiên, ông Lê Đăng Doanh cho rằng cần nhấn mạnh hơn nữa yêu cầu về công khai, minh bạch bởi theo ông đây là yêu cầu không hề dễ dàng khi tham gia CPTPP. Và điều quan trọng là phải thực thi và quán triệt cụ thể.
Tại hội thảo, các chuyên gia đều có chung nhận định, tác động với DN sẽ tích cực hơn nếu Chính phủ củng cố hơn nữa đồng thuận xã hội về tiến trình và các biện pháp cải cách, cân bằng các mục tiêu chính sách, đồng thời tạo dựng thêm không gian chính sách để hỗ trợ DN.
Nguyệt Minh
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Xem nhiều nhất
Cột tin quảng cáo