Hiệp định CPTPP

Tận dụng lợi ích từ CPTPP: Phụ thuộc vào năng lực thể chế

Mặc dù Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mới có hiệu lực từ đầu năm 2019, nhưng bước đầu đã có tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu cũng như đầu tư. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, việc thực thi có hiệu quả và tận dụng những tiềm tăng của CPTPP còn phụ thuộc vào năng lực thể chế...

Tiếp cận EVFTA hiệu quả: Bài học quan trọng cần rút ra từ CPTPP / Để CPTPP, EVFTA đạt hiệu quả tối đa

Những tín hiệu tích cực sau 1 năm thực thi CPTPP

Tại Hội thảo “Thực hiện hiệu quả Hiệp định CPTPP: Yêu cầu hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) đã diễn ra sáng 19/2, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng CIEM - cho rằng, kể từ năm 2012, Việt Nam đã tập trung hơn vào đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hướng tới cải thiện chất lượng tăng trưởng cũng như chất lượng công tác điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế đã có sự chuyển dịch từ chủ yếu theo chiều rộng sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt, sự góp mặt của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng giúp Việt Nam mở ra những cơ hội mới.

Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Hiệp định CPTPP đã có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/1/2019. Hiệp định này được kỳ vọng sẽ tạo thêm xung lực mới cho phát triển thương mại và đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa cải cách kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả thực thi và khả năng tận dụng những lợi ích tiềm năng từ Hiệp định CPTPP còn phụ thuộc vào năng lực thể chế, năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trong nước.

Quang cảnh hội thảo.
Quang cảnh hội thảo.

Đánh giá về những tác động của Hiệp định CPTPP đối với kinh tế Việt Nam sau 1 năm thực hiện, ông Nguyễn Anh Dương – Trưởng ban Chính sách kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương – CIEM) – cho rằng, đến thời điểm này còn quá sớm để nhìn nhận đầy đủ về những tác động mang lại cho Việt Nam. Nhưng sau hơn 1 năm thực hiện, chúng ta có thể thấy những tác động bước đầu. Theo đó, Hiệp định CPTPP ít nhiều đã có đóng góp tích cực vào hoạt động thương mại của Việt Nam. Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 6 nước thành viên đã phê chuẩn Hiệp định đạt 34,4 tỷ USD, tăng 8,3%; trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 30,1%, chỉ tăng 1%. Đặc biệt những thị trường mới mà Việt Nam chưa từng có hiệp định thương mại tự do (FTA) trước đây như Canada, Mexico cũng tăng đáng kể về xuất khẩu. Cụ thể, xuất khẩu sang Canada tăng 28,2% và Mexico tăng 26,8%.

Bên cạnh đó, chất lượng của dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cũng được cải thiện đáng kể. Quy mô vốn FDI thực hiện liên tục đạt những kỷ lục mới, năm 2019 đã đạt con số kỷ lục là 20,4 tỷ USD. Niềm tin của các nhà đầu tư ngày càng được củng cố, môi trường đầu tư, kinh doanh không ngừng cải thiện theo hướng thông thoáng hơn và chính sách thu hút FDI ngày hoàn thiện. Ngoài ra, các cơ quan hoạch định chính sách và cộng đồng nhà đầu tư cũng sẵn sàng hơn với những cơ hội từ CPTPP mang lại.

Về dịch vụ tài chính, Hiệp định CPTPP cam kết mở cửa thị trường cao hơn so với các FTA và WTO. Dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán là những nhóm chính chịu nhiều tác động từ CPTPP. Chính phủ cũng đã và đang tiến hành những bước cải cách cần thiết để hài hòa hóa khung khổ của các nhóm dịch vụ này với cam kết trong CPTPP. Đối với lao động, việc làm, Việt Nam cũng cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động quốc tế. Hệ thống pháp luật về quan hệ lao động đã, đang và sẽ được Chính phủ tiếp tục hoàn thiện.

Những lợi ích của Việt Nam không chỉ thể hiện ở con số vĩ mô mà chính từ cộng đồng doanh nghiệp. Sự phát triển, năng động và nắm bắt cơ hội của các doanh nghiệp sẽ là hình mẫu để các doanh nghiệp khác tận dụng theo” – ông Nguyễn Anh Dương nhấn mạnh.

tan dung loi ich tu cptpp phu thuoc vao nang luc the che
CPTPP được coi là thỏa thuận lớn và tham vọng đối với Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng với nền kinh tế, việc làm và mức sống tương lai

Cơ hội từ CPTPP thực chất là cơ hội thể chế

Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) – cho rằng, với cộng đồng doanh nghiệp, từ lâu đã nhìn nhận cơ hội lớn nhất từ CPTPP thực chất là cơ hội thể chế. Trong CPTPP, có 10 đối tác, thì đến 7 đối tác Việt Nam đã có FTA. Cho nên, lợi ích kinh tế chủ yếu ở 3 thị trường mới. Tác động thể chế có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi CPTPP là tiêu chuẩn, định hướng cho nhiều cải cách thể chế ở Việt Nam. Đồng thời, CPTPP cũng là sức ép cho Việt Nam cải cách. Nhiều vấn đề khó như môi trường, lao động… thực chất trong quá trình đàm phán rất gần với Nghị quyết của Đảng, Nhà nước. “Nếu tự làm, 5 năm, 10 năm và lâu hơn nữa. CPTPP lại là sức ép cho Việt Nam để làm thế nào cải cách thể chế”- bà Nguyễn Thị Thu Trang cho hay. Ngoài ra, CPTPP còn tạo điều kiện, động lực để Việt Nam thực hiện cải cách thể chế. Chính vì vậy, CPTPP có ý nghĩa đặc biệt trong việc thúc đẩy cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam.

 

Mặc dù có những nỗ lực đáng ghi nhận nhằm hoàn thiện khung khổ pháp lý, thể chế theo cam kết FTA, tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn khoảng cách về chất lượng thể chế kinh tế. Nhiều văn bản còn chậm, thậm chí những văn bản đã cam kết còn chưa được thực hiện. Đại diện CIEM cũng cho rằng, việc nhiều nước CPTPP đứng đầu hoặc có xếp hạng rất cao về các khía cạnh của môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh được nhìn nhận là một yếu tố tích cực, đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục cải thiện thông qua nỗ lực tự thân và tận dụng hỗ trợ kỹ thuật của đối tác.

Điều quan trọng nhất là chúng ta thực sự muốn gì trong dài hạn, hiểu về chính nội tại phát triển để trên cơ sở đó đưa ra hình dung, mảnh ghép CPTPP hay Hiệp định EVFTA và các cơ chế “chơi” khác phù hợp với bức tranh phát triển tổng thể của Việt Nam. Nếu chỉ nhìn hiệp định này ở góc độ thực hiện các cam kết đầy đủ, đúng thời hạn, có lẽ lợi ích các doanh nghiệp Việt Nam rất khó được kịp thời, chưa kể những kỳ vọng nhiều nhất là cải cách thể chế của CPTPP và EVFTA” – ông Nguyễn Anh Dương nhấn mạnh.

Ở cấp độ doanh nghiệp, theo đại diện CIEM, cần nâng cao thông tin nhận thức cho doanh nghiệp. Bởi doanh nghiệp còn quá lưu tâm đến những vấn đề ngắn hạn; mới chỉ hiểu về thuế quan và cắt giảm thuế quan, chứ chưa thực sự hiểu đầy đủ và có hệ thống về các khía cạnh khác như quy tắc xuất sứ, SPS, TBT… và thiếu các thông tin về mạng lưới nhà cung cấp trong nước và ngoài nước. Vì vậy, để tận dụng tối đa lợi ích từ CPTPP, doanh nghiệp cần xử lý các thách thức, cải thiện năng lực cạnh tranh, hài hòa việc thực hiện CPTPP với các tuyến hội nhập khác. Đồng thời, Chính phủ củng cố hơn nữa đồng thuận xã hội về tiến trình và các biện pháp cải cách, cân bằng các mục tiêu chính sách, đồng thời tạo dựng thêm không gian để hỗ trợ doanh nghiiệp.

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm