Tin tức - Sự kiện

Kết thúc năm 2014 Bộ Lao động nói gì về tình hình tiền lương

“Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu phải được tính toán kỹ theo nguyên tắc kinh tế thị trường dựa trên thương lượng. Nếu điều chỉnh quá nhanh, với mức tăng cao sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Ngược lại nếu điều chỉnh chậm, mức tăng thấp thì đời sống của người lao động khó khăn”. Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có một số chia sẻ về tình hình tiền lương

Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân

 

Năm 2014 kinh tế thế giới và trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, ông có nhận định gì về tình hình tiền lương, thu nhập của người lao động trong năm qua?

 
Năm 2014 tình hình kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi chậm, tuy vận vẫn có nhiều biến động. Ở trong nước, nền kinh tế cũng bị ảnh hưởng bởi suy giảm và phục hồi chậm của kinh tế toàn cầu. Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng và thực tế chúng ta đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, mức tăng trưởng kinh tế 5,98% cao hơn mức đề ra. Tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tuy gặp khó khăn nhưng cũng có bước phục hồi và phát triển đã tác động đến tiền lương, thu nhập và đời sống của người lao động làm công ăn lương.
 
Theo số liệu điều tra tiền lương tại 2.000 doanh nghiệp do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thực hiện năm 2014, báo cáo sơ bộ của Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp cho thấy, tiền lương, thu nhập năm 2014 vẫn có xu hướng ổn định và tăng nhẹ so với hơn năm 2013, trong đó tiền lương bình quân của  người lao động năm 2014 ước đạt 5,0 triệu đồng/tháng, tăng khoảng 6% so với năm 2013, nhiều doanh nghiệp có đủ việc làm mức thu nhập bình quân đạt 7,8 triệu đồng/tháng.
 
Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh nghiệp gặp khó khăn dẫn đến nợ lương của người lao động. Theo báo cáo sơ bộ của 63 tỉnh, thành phố, tính đến tháng 11/2014 có 19 tỉnh, thành phố với 95 doanh nghiệp nợ 32,632 tỷ đồng tiền lương của 5.340 người lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tập hợp tình hình tiền lương, tiền thưởng gửi về Bộ.
 
Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu đối với doanh nghiệp trong thời gian tới được thực hiện theo hướng nào để vừa phù hợp với nguyên tắc kinh tế thị trường, vừa bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên trong quan hệ lao động?
 
Tại Điều 91 Bộ luật Lao động đã quy định “mức lương tối thiểu phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ”. Trên thực tế mức lương tối thiểu vùng áp dụng từ ngày 01/01/2015 vẫn chưa bảo đảm được “nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ” theo quy định của Bộ luật Lao động. Vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước sẽ tiếp tục điều chỉnh tăng dần mức lương tối thiểu vùng để bảo đảm quy định của pháp luật lao động.
 
Hiện nay, Chính phủ đã giao cho Hội đồng tiền lương quốc gia (Hội đồng hoạt động theo cơ chế 3 bên) tổ chức thương lượng, thỏa thuận mức lương tối thiểu vùng để khuyến nghị với Chính phủ công bố. Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu phải được tính toán kỹ theo nguyên tắc kinh tế thị trường dựa trên thương lượng. Nếu điều chỉnh quá nhanh, với mức tăng cao sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp.
 
Ngược lại nếu điều chỉnh chậm, mức tăng thấp thì đời sống của người lao động khó khăn. Vì vậy, hàng năm Hội đồng tiền lương quốc gia sẽ phải theo dõi, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tiền lương, thu nhập, việc làm của người lao động trên thị trường, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá sinh hoạt để xây dựng lộ trình điều chỉnh và thương lượng mức điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng hàng năm cho phù hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp và tiến tới bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động theo quy định của pháp luật lao động.
 
Cơ chế quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua đã có những thay đổi gì? Những đổi mới trong cơ chế tiền lương đó đã có tác động như thế nào đến các doanh nghiệp cũng như người lao động và liệu có cần tiếp tục điều chỉnh để tác động tích cực hơn đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và đời sống của người lao động?
 
Căn cứ quy định Bộ luật Lao động năm 2012, Nghị quyết Trung ương về đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và các văn bản pháp luật khác, cơ chế tiền lương trong các doanh nghiệp hiện nay có một số nội dung được đổi mới so với quy định trước đây, đó là: 
 
Doanh nghiệp được quyền chủ động xây dựng thang lương, bảng lương theo các nguyên tắc do Chính phủ quy định, xếp lương cho người lao động, xác định kế hoạch quỹ tiền lương, quyết toán quỹ tiền lương theo năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh và chủ động trả lương cho người lao động theo quy chế trả lương của doanh nghiệp gắn với vị trí công việc.
 
Tiếp tục tách tiền lương, tiền thưởng của viên chức quản lý với người lao động, trong đó tiền lương của viên chức quản lý tương ứng với quy mô của doanh nghiệp (gọi là mức lương cơ bản tối đa đối với chủ tịch tập đoàn kinh tế là 36 triệu đồng/tháng), gắn với hiệu quả, sản xuất, kinh doanh, kết quả hoạt động quản lý, điều hành của viên chức quản lý và có khống chế mức tối đa được hưởng (hiệu quả kinh doanh tốt thì được hưởng thêm tối đa 0,5 lần mức lương cơ bản, trường hợp không bảo đảm điều kiện theo quy định thì hưởng thấp hơn mức lương cơ bản, nếu lỗ thì chỉ được hưởng mức lương chế độ), doanh nghiệp không được sử dụng quỹ tiền lương của người lao động để trả cho viên chức quản lý.
 
Quy định rõ trách nhiệm của chủ sở hữu, Hội động thành viên, Tổng giám đốc; tăng cường cơ chế giám sát nội bộ thông qua quy định trách nhiệm của kiểm soát viên, công đoàn cơ sở; cơ chế công khai, minh bạch tiền lương, tiền thưởng của người lao động và viên chức quản lý thông qua công khai trong công ty, báo cáo giám sát định kỳ, công khai trên Website của công ty và chủ sở hữu. 
 
Với cơ chế tiền lương nêu trên đã có tác động tích cực, tạo sự chủ động cho doanh nghiệp nhà nước trong quá trình xác định tiền lương, trả lương cho người lao động gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh và kết quả thực hiện công việc. Đối với tiền lương của viên chức quản lý về cơ bản đã được khống chế và gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh và kết quả hoạt động quản lý, điều hành.
 
Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, đối với doanh nghiệp có quy mô lớn, hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao thì mức tiền lương Nhà nước khống chế tối đa 1,5 lần mức lương cơ bản (tăng thêm không quá 0,5 lần) là chưa hợp lý, làm giảm động lực đội ngũ quản lý.
 
Vì vậy, trong thời gian tới Bộ sẽ tiếp tục rà soát, đánh giá, báo cáo Chính phủ nâng mức tiền lương tối đa đối với viên chức quản lý những doanh nghiệp có quy mô lớn, hiệu quả cao; Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chế quản lý lao động, tiền lương đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu, ban hành cơ chế quản lý đối với công ty cổ phần do nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm quản lý chung của Nhà nước; đồng thời thực hiện việc giám sát thực hiện chế độ tuyển dụng, sử dụng lao động, tiền lương, tiền thưởng đối với tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước theo quy định tại Nghị định số 69/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2014 của Chính phủ.
 
Hội đồng Tiền lương quốc gia đã được thành lập và đi vào hoạt động được hơn 01 năm. Với vai trò là chủ tịch Hội đồng, ông đánh giá thế nào về kết quả hoạt động của Hội đồng trong hơn 01 năm qua? Thời gian tới Hội đồng sẽ tập trung vào những hoạt động gì và có những đề xuất, kiến nghị gì để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình?
 
Căn cứ quy định tại Điều 92 Bộ luật Lao động và Nghị định số 49/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương, ngày 03 tháng 7 năm 2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1055/2013/QĐ-TTg thành lập Hội đồng Tiền lương quốc gia. Hội đồng gồm 15 thành viên (05 đại diện của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 05 Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và 05 tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở trung ương) có chức năng, nhiệm vụ chính là tư vấn cho Chính phủ về mức lương tối thiểu vùng.
 
Sau khi được thành lập, trong năm 2013 và năm 2014 Hội đồng tiền lương quốc gia đã tổ chức các cuộc thương lượng trên cơ sở đó có báo cáo khuyến nghị để Chính phủ công bố mức lương tối thiểu vùng từ ngày 01/01/2014: vùng I mức 2,7 triệu đồng; vùng II mức 2,4 triệu đồng; vùng III mức 2,1 triệu đồng và vùng IV mức 1,9 triệu đồng/tháng; và mức lương tối thiểu vùng từ ngày 01/01/2015: vùng I mức 3,1 triệu đồng; vùng II mức 2,75 triệu đồng; vùng III mức 2,4 triệu đồng và vùng IV mức 2,15 triệu đồng/tháng.
 
Với sự ra đời của Hội đồng tiền lương quốc ra đã làm thay đổi cơ chế xác định tiền lương tối thiểu vùng phù hợp với nguyên tắc của cơ chế thị trường. Từ chỗ mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ ấn định, sang giao cho đại diện 3 bên (Hội đồng tiền lương quốc gia) xác định, thương lượng, thỏa thuận và khuyến nghị để Chính phủ công bố. Mặc dù mới được thành lập, nhưng nhìn chung Hội đồng hoạt động rất tích cực và có hiệu quả.
 
Các thành viên trong Hội đồng đều nhìn nhận các vẫn đề chung, tình hình kinh tế xã hội, sản xuất, kinh doanh, đời sống của người lao động để thỏa thuận mức lương tối thiểu theo hướng bảo đảm hài hòa lợi ích các bên. Tuy nhiên do lợi ích khác nhau, cho nên trong quá trình thương lượng ý kiến đại diện các bên cũng còn rất khác thậm chí khác xa nhau.
 
Bên đại diện người lao động thường đề nghị mức tăng cao để sớm đạt nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, trong khi bên đại diện người sử dụng lao động xuất phát từ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn khó khăn để đề nghị mức tăng thấp. Vì vậy, Hội đồng phải tổ chức rất nhiều cuộc thương lượng để thỏa thuận, thống nhất mức lương tối thiểu bảo đảm hài hòa lợi ích khuyến nghị với Chính phủ.
 
Trong thời gian tới, Hội đồng sẽ tập trung theo dõi, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người lao động để tăng hiệu quả thương lượng, thỏa thuận và xác định lộ trình tiền lương tối thiểu cho phù hợp với thực tế; nghiên cứu các cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn liên quan đến việc tính toán, điều chỉnh mức lương tối thiểu, đặc biệt là yếu tố năng suất lao động (Hội đồng sẽ nghiên cứu Đề án thành lập ủy ban năng suất lao động để báo cáo Chính phủ); đồng thời Hội đồng sẽ nghiên cứu các vấn đề tác động của tiền lương, tiền lương tối thiểu đến việc làm, thất nghiệp và các nội dung khác liên quan làm cơ sở cho việc điều chỉnh mức lương tối thiểu.
 
Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015 sẽ đem lại những cơ hội và thách thức gì đối với Việt Nam? Quá trình hội nhập có tác động như thế nào đến doanh nghiệp và người lao động? Chúng ta cần có những chính sách, giải pháp gì về lao động, tiền lương để tận dụng cơ hội và ứng phó với những thách thức đó?
 
Phát triển kinh tế thị trường và hội nhập là xu hướng tất yết của các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Việt Nam đã và đang thực hiện công cuộc đổi mới, cải cách mạnh mẽ và hoàn thiện thể chế, chính sách (trong đố có cơ chế, chính sách tiền lương) để phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập sâu, rộng vào kinh tế khu vực và toàn cầu.
 
Thể hiện rõ nhất trong quá trình đổi mới chính sách lao động, tiền lương là Bộ luật Lao động thông qua việc quy định quyền tự do lựa chọn việc làm, học nghề, tăng cường thương lượng, thỏa thuận về hợp đồng lao động, tiền lương, tiền thưởng, ký kết thỏa ước lao động tập thể; xây dựng quan hệ lao động theo hướng hài hòa, ổn định và tiến bộ; thiết lập cơ chế thương lượng tiền lương cấp quốc gia, cấp ngành và cấp doanh nghiệp. 
 
Bên cạnh những cơ hội trong quá trình hội nhập như tìm việc làm có thu nhập cao, chia sẻ kinh nghiệm đào tạo, quản lý lao động...thì Việt Nam cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức đang đặt ra đó là năng lực cạnh tranh chưa cao, chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động còn thấp, vấn đề việc làm, thất nghiệp, tiền lương, thu nhập và đời sống của người lao động còn nhiều thách thức.
 
Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì năng suất lao động tính trên phạm vi quốc gia của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương: năm 2013 năng suất lao động của Việt Nam, tính theo sức mua tương đương của đồng đô la Mỹ tại thời điểm 2005 là 5.440 USD, cao hơn của Myanma (2.828), Campuchia (3.989) và Lào (5.396 USD); thấp hơn của các nước còn lại trong khối ASEAN: Indonesia (9.848 USD), Philipine (10.026), Thái Lan (14.754), Malaxia (35.751) và Singapore (98.072 USD).
 
Tiền lương bình quân của người lao động ở Việt Nam hiện nay cũng thuộc loại thấp so với khu vựcAsean (chỉ cao hơn Campuchia và Lào). Vì vậy, khi hội nhập khu vực và quốc tế thì tiền lương của người lao động cũng phải được nâng lên. Trong điều kiện năng suất lao động của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều và còn rất thấp, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế là một trong những cản trở lớn của nền kinh tế Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp và người lao động Việt Nam nói riêng trong quá trình hội nhập.
 
Để hạn chế những tác động bất lợi, chủ động hội nhập khu vực và thế giới thì bên cạnh vấn đề nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về lao động, tiền lương và năng suất lao động (như hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thanh tra, kiểm tra đảm bảo thực thi luật pháp), Nhà nước tiếp tục thực hiện tái cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu lao động, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao năng suất lao động (trong đó tập trung triển khai Luật Giáo dục nghề nghiệp mới được Quốc hội thông qua, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng cảo chất lượng quản lý, quản trị); thúc đẩy thông tin thị trường lao động, đặc biệt thông tin về tiền lương, năng suất lao động của ngành, doanh nghiệp để hai bên có thông tin thương lượng, thỏa thuận tiền lương; nâng cao năng lực của các bên trong thương lương về tiền lương, xây dựng quy chế trả lương gắn với kết quả, hiệu quả của từng ngành, từng doanh nghiệp và cá nhân người lao động./.
 
Như Trâm (thực hiện)
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo