Khoa học công nghệ bảo tồn di sản - nhìn từ Nghị quyết 57
Xây dựng Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam / Ứng dụng công nghệ vật lý số nâng tầm giá trị di sản
Trong hành trình đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một bước ngoặt chính sách, đặt di sản trong tư thế được số hóa, được chia sẻ, được trải nghiệm. Để khi mỗi người dân được “chạm” di sản qua màn hình, qua tour ảo, qua mô hình 3D… thì di sản không còn đứng ngoài cuộc sống mà là một phần trong đời sống, một phần trong cảm xúc và một phần trong tương lai của cộng đồng.
Di sản văn hóa “sống lại” như thế nào trong không gian số?
Di sản văn hóa không chỉ là những công trình cổ kính, những hiện vật trưng bày trong bảo tàng mà là ký ức, là bản sắc, là chất xúc tác của đời sống tinh thần, xã hội. Tuy nhiên, khi thời gian, thiên tai, sự thay đổi xã hội và công nghiệp hóa, đô thị hóa không ngừng tác động, việc bảo tồn và phát huy di sản trở thành một thách thức lớn đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Di tích Hoàng cung Thăng Long thời nhà Lý bằng công nghệ 3D. (Nguồn: Bộ VHTTDL).
Hiện nay tại Việt Nam đã và đang có một số điển hình ứng dụng giải pháp công nghệ “cứu” và hỗ trợ di sản. Tại Cố đô Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích đã ứng dụng công nghệ số như QR-Code, mô hình 3D, VR 360°, vé tham quan điện tử để hiện đại hóa trải nghiệm di sản và giúp bảo quản tốt hơn. Từ năm 2011, Viện Nghiên cứu kinh thành (trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã bắt đầu nghiên cứu phục dựng bằng công nghệ 3D đối với di tích hoàng cung Thăng Long thời nhà Lý. Sau 10 năm, đến tháng 4/2021, toàn bộ chi tiết, công trình đã được phục dựng thành công, gồm 64 kiến trúc; 38 cung điện và hành lang, 26 lầu lục giác cùng tường bao, đường đi và cổng vào. Thành công này mở ra hy vọng tiếp tục phục dựng kiến trúc hoàng cung thời Đại La, Đinh - Tiền Lê, thời Trần, đặc biệt là kiến trúc Điện Kính Thiên, tòa Chính điện trong Cấm thành Thăng Long thời Lê sơ…
Khi một di tích được quét 3D, đặt vào không gian VR/AR để truy cập từ xa, thì người trẻ vốn quen với smartphone, gaming sẽ có cơ hội tiếp cận di sản bằng cách “chơi” mà học, “khám phá” mà trải nghiệm. Đây là sự chuyển hóa rất lớn từ di sản bị “gói” trong bảo tàng thành “trải nghiệm tham gia” đúng nghĩa. Công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) phân tích hành vi tham quan; AI dịch tự động các thông tin di sản nhiều ngôn ngữ; Internet of Things (IoT) giám sát điều kiện bảo quản… giúp hiện vật, di tích, lời kể lịch sử không bị lãng quên. Di sản không chỉ được lưu giữ mà còn thích ứng với thời đại số, sống động hơn, kết nối hơn với con người.

Triển khai scan 3D di tích điện Thái Hòa trước khi hạ giải để có cơ sở cho việc trùng tu và lưu trữ dữ liệu cho tương lai. (Nguồn: Bộ VHTTDL).
Nhưng, mặc dù đã có nhiều đơn vị ứng dụng công nghệ số hóa, việc chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, di sản hiện nay mới chỉ dừng ở mức tiếp cận ban đầu, chưa có mô hình chuyển đổi số toàn diện. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số vào bảo tồn di sản hiện đại đang mở ra một “cánh cửa mới”. Và chính văn bản chiến lược của Đảng - Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 đã xác định rõ: phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một trong những đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, mà trong đó có lĩnh vực văn hóa, di sản.
Vậy, từ Nghị quyết 57, di sản văn hóa sẽ được “sống lại” như thế nào trong không gian số, nơi mà người dân có thể “chạm, hiểu và yêu” di sản bằng ngôn ngữ của thời đại công nghệ - đang là câu hỏi đặt ra.
Xây dựng nền văn hóa - di sản số sống động
Xưa nay theo truyền thống, việc bảo tồn di sản thường dựa vào phương pháp cổ điển: trùng tu vật liệu, phục hồi cấu trúc, bảo vệ hiện trạng… Tuy nhiên, những phương pháp truyền thống đó ngày càng tỏ ra hạn chế trước tốc độ thay đổi môi trường, đô thị hóa, số lượng di tích lớn và chi phí bảo trì cao. Do đó, công nghệ số và khoa học vật liệu mới trở thành công cụ đắc lực.
Công nghệ số cho phép “di sản” không còn bị giới hạn trong không gian vật thể trực tiếp mà có thể tiếp cận từ xa bằng thiết bị di động, thao tác tương tác, cảm nhận đa giác quan. Hay nói cách khác, việc triển khai các ứng dụng số, không gian số không chỉ mang lại hiệu quả trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa mà còn là cầu nối đưa du khách đến gần hơn. Như vậy, công nghệ không chỉ giúp giữ gìn di sản mà còn lan tỏa, giúp người dân “chạm, hiểu và yêu” di sản bằng ngôn ngữ thời đại số thông qua thực tế ảo, hình ảnh 3D, tour trực tuyến, mô hình dữ liệu lớn (Big Data) phân tích trải nghiệm tham quan…

Nhiều di sản tại Hà Nội được số hóa, tăng trải nghiệm cho du khách. (Ảnh: MM).
Để làm được điều này thì Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 chính là chỗ dựa chính sách mạnh mẽ. Nghị quyết 57 nêu rõ: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy… Nhà khoa học là nhân tố then chốt. Đồng thời, Nghị quyết xác định tới năm 2030: Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử… Như vậy, bảo tồn di sản, vốn thuộc lĩnh vực văn hóa đã được đặt vào khuôn khổ phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số quốc gia. Đây là tiền đề để ứng dụng công nghệ vào di sản trở nên chiến lược và đồng bộ, không chỉ mang tính đơn vị nhỏ lẻ.
Tuy nhiên, hiện nay bảo tồn di sản nhìn từ góc độ công nghệ đang đối diện với không ít “điểm nghẽn”. Đó là nhân lực chất lượng cao cho di sản số còn thiếu; hạ tầng số, lưu trữ dữ liệu lớn về di sản chưa đồng bộ; thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng về khai thác, sở hữu dữ liệu số di sản; việc ứng dụng công nghệ còn phân mảnh, không liên kết giữa các di tích, chưa khai thác hết tiềm năng truyền thông và kinh tế… Bên cạnh đó, cũng cần lưu tâm đến đến rủi ro thương mại hóa và mất bản sắc. Bởi khi công nghệ được áp dụng nhưng thiếu định hướng, di sản dễ bị “giải mã” thành sản phẩm thương mại đơn thuần, mất đi tính chân, thiện, mỹ vốn có. Như nhận định của một chuyên gia: “Số hóa di tích hiện là cầu nối… nhưng nếu chỉ là copy-paste, không có gốc đào tạo bản sắc, dễ biến thành hình ảnh thương mại”.
Vì di sản số liên quan đến công nghệ, dữ liệu lớn, nên vấn đề bảo mật, bản quyền, quyền truy cập cũng trở nên phức tạp. Rồi sự chênh lệch giữa các địa phương cũng làm tăng khoảng cách số, các thành phố lớn như Hà Nội, Huế có hạ tầng và kinh phí triển khai nhanh hơn; nhưng vùng sâu, vùng xa có thể bị bỏ lại phía sau. Điều này tạo ra nguy cơ khoảng cách di sản số, những nơi ít công nghệ sẽ ít được tiếp cận, gây mất cân bằng về quyền hưởng văn hóa…
Để tháo gỡ những “điểm nghẽn” này thì Nghị quyết 57 đặt vấn đề thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là “những nội dung trọng tâm, cốt lõi”. Cùng với đó, cần các giải pháp kết nối di sản với công nghệ, dân với văn hóa như: hoàn thiện thể chế và chính sách (sớm ban hành chương trình quốc gia chuyển đổi số di sản giai đoạn 2025 - 2030 gắn với Nghị quyết 57); xây dựng quy định pháp lý về di sản số: định dạng, sở hữu, khai thác, chia sẻ và bản quyền; tạo cơ chế ưu đãi cho doanh nghiệp công nghệ tham gia bảo tồn - phát huy di sản: PPP (hợp tác công - tư), quỹ đổi mới sáng tạo; đầu tư hạ tầng và nhân lực; đầu tư hạ tầng số (scan 3D, VR/AR, IoT, GIS) cho di tích - bảo tàng; đào tạo nhân lực “kép”: chuyên gia văn hóa có kiến thức công nghệ, kỹ sư công nghệ hiểu bảo tồn di sản; hỗ trợ vùng khó khăn lắp đặt hạ tầng tham quan số và số hóa di sản; xây dựng trải nghiệm số cho cộng đồng (cung cấp tour ảo 360°, ứng dụng AR/VR để tham quan từ xa, số hóa hiện vật, triển lãm trực tuyến, ứng dụng mobile, khuyến khích học sinh, sinh viên thực hiện dự án di sản số, hackathon văn hóa - công nghệ)…
Đặc biệt, cần chú trọng việc kết nối kinh tế - văn hóa - du lịch để biến di sản số thành sản phẩm du lịch thông minh, dịch vụ trải nghiệm, ứng dụng thương mại hóa có bản sắc; phát triển nền tảng dữ liệu mở về di sản để doanh nghiệp, startup khai thác sáng tạo sản phẩm văn hóa số; quảng bá di sản trên nền tảng số quốc tế, phối hợp với UNESCO, tổ chức quốc tế...
Như vậy, việc bảo tồn di sản không chỉ là nhiệm vụ giữ lại quá khứ mà còn là khởi tạo tương lai thông qua sản phẩm du lịch số, trải nghiệm số, khai thác giá trị văn hóa trong nền kinh tế tri thức. Khi đó, công nghệ và di sản không chỉ đồng hành, mà hòa quyện để Việt Nam xây dựng một nền văn hóa - di sản số sống động và con người Việt Nam có thể hiểu, gìn giữ và tự hào về cội nguồn của mình trong ngôn ngữ số của thế kỷ 21.
"Thập kỷ quốc tế về văn hóa vì phát triển bền vững" Là sáng kiến của Việt Nam và tại Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng UNESCO (Uzbekistan), các nước đã đồng thuận thông qua dự thảo Nghị quyết do Việt Nam đề xuất với các đồng tác giả và sự ủng hộ của 71 nước. Nghị quyết nhấn mạnh vai trò then chốt của văn hóa là nền tảng của bản sắc, nguồn lực đổi mới, trụ cột của phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức của thời đại. Sau gần 40 năm kể từ thập kỷ quốc tế về phát triển văn hóa 1988 - 1997, đây là lần đầu tiên UNESCO đồng thuận khởi xướng một thập kỷ quốc tế mới gắn với văn hóa. Sáng kiến được Tổng Giám đốc UNESCO cũng như các nước thành viên đánh giá rất cao vì phù hợp với chiến lược của UNESCO và quan tâm chung hiện nay, đề cao vai trò tiên phong của UNESCO đưa văn hóa trở thành một trụ cột độc lập đóng góp vào phát triển bền vững ở từng quốc gia và trên toàn cầu, động lực duy trì hòa bình, thúc đẩy công nghiệp sáng tạo, bảo vệ đa dạng văn hóa và tăng trưởng kinh tế bao trùm, gắn kết xã hội. Tới đây, Việt Nam và các nước đồng bảo trợ sẽ tiếp tục đệ trình Nghị quyết lên Đại hội đồng Liên hợp quốc xem xét và chính thức thông qua, để có thể sớm phát động thập kỷ quốc tế về văn hóa vì phát triển bền vững giai đoạn 2027 - 2036. |
End of content
Không có tin nào tiếp theo




