Thị trường

3 lý do chính đẩy xuất khẩu tăng trưởng tích cực giữa đại dịch

DNVN - Các thị trường xuất khẩu chính phục hồi rõ nét, việc tận dụng ưu đãi mở cửa thị trường từ các FTA mới và giá xuất khẩu hàng hóa tăng được cho là 3 nguyên nhân chính khiến xuất khẩu Việt Nam giữ được đà tăng trưởng trong 8 tháng đầu năm 2021 bất chấp đại dịch COVID-19.

Hàng loạt cổ phiếu có yếu tố dẫn dắt như BVH, MSN, VNM giảm sâu / Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2021 dự kiến diễn ra trong tháng 12/2021

Trong 8 tháng đầu năm 2021, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 213,52 tỷ USD, tăng 21,8%, tương ứng tăng 38,15 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 297,43 tỷ USD, tăng 31,2% (tương ứng tăng gần 70,8 tỷ USD); trị giá xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước là 132,25 tỷ USD, tăng 19,8% (tương ứng tăng 21,83 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước.
Đáng chú ý, có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 91,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó 6 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 10 tỷ USD, chiếm 63,1%).
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 8 tháng, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản ước đạt 2,29 tỷ USD, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 189,28 tỷ USD, tăng 22,5%. Nhóm hàng nông sản, lâm sản đạt 15,4 tỷ USD, tăng 14,9%. Nhóm hàng thủy sản đạt 5,58 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ.

Xuất khẩu giữ đà tăng trưởng tích cực trong 8 tháng đầu năm 2021.
Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo 35 (Bộ Công Thương), có 3 nguyên nhân chủ yếu khiến Việt Nam ghi nhận kết quả xuất khẩu tích cực trong 8 tháng qua. Trong đó, nguyên nhân thứ nhất là việc các quốc gia trên thế giới đang triển khai mạnh mẽ tiêm vaccine, kích cầu tiêu dùng và dần mở cửa trở lại đã làm tăng nhu cầu đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam như dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử.
Các thị trường xuất khẩu chính chứng kiến sự phục hồi rõ rệt ở các ngành hàng chủ lực. Cụ thể, trong 8 tháng đầu năm 2021, với thị trường Mỹ: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt, may đạt 10.52 tỷ USD, tăng 16,4%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 10,31 tỷ USD, tăng mạnh 68%, tương ứng tăng 4,16 tỷ USD; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 8,09 tỷ USD, tăng 28% so với cùng kỳ năm trước; Giày dép các loại: đạt 5,17 tỷ USD, tăng 30,2%; Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 6,33 tỷ USD, tăng 57% so với cùng kỳ năm trước.
Với thị trường Nhật Bản: Kim ngạch xuất khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt đạt 1,7 tỷ USD, tăng 33%, tương ứng tăng 417 triệu USD; Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 931 triệu USD, tăng 14%.
Với thị trường Trung Quốc: Kim ngạch xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện đạt 8,06 tỷ USD, tăng mạnh 65%; Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 1,67 tỷ USD, tăng 46%, tương ứng tăng 528 triệu USD; Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,02 tỷ USD, tăng 24%.
Thứ hai, việc triển khai thực thi các FTA có hiệu quả đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Với việc tận dụng ưu đãi mở cửa thị trường từ các hiệp định thương mại tự do mới ký kết như EVFTA, UKVFTA, CPTPP, xuất khẩu trong 8 tháng đầu năm 2021 sang Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 62,2 tỷ USD, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 32,7 tỷ USD, tăng 19,8%. Thị trường EU đạt 26,1 tỷ USD, tăng 14,5%. Trong khi đó, thị trường ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản lần lượt đạt 18,4 tỷ USD; 13,9 tỷ USD và 13,5 tỷ USD với các mức tăng tương ứng 23,3%, 9,9% và 8,6%.
Ban Chỉ đạo 35 nhận định, trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và đã có tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại trên phạm vi toàn cầu, xuất khẩu của cả nước vẫn có tăng trưởng dương do các doanh nghiệp đã tận dụng được cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường thay thế. Điều này cho thấy, việc đẩy mạnh các hoạt động đàm phán, ký kết các FTA đã giúp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường.
Bên cạnh đó, xuất khẩu đã có sự tăng trưởng cân đối hơn, không chỉ về quy mô chiều rộng mà hướng tới cả về chiều sâu. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp cận được các khu vực thị trường được coi là “khó tính” nhất trên thế giới, nơi áp dụng những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cao đối với hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là với nhóm hàng nông sản và thủy sản. Cụ thể như xuất khẩu mặt hàng rau quả 7 tháng đầu năm sang Anh tăng 72,5% (đạt 9,5 triệu USD), sang Canada tăng 16,2% (đạt 19,2 triệu USD), sang Nhật Bản tăng 18,2% (đạt 93,6 triệu USD), sang Australia tăng 45,6% (đạt 46,6 triệu USD).
Thứ ba, sức cầu của thị trường thế giới hồi phục mạnh, trong đó, các nền kinh tế lớn có tốc độ phục hồi nhanh gây ra sự thiếu hụt, tạo sự gia tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế. Giá xuất khẩu tăng góp phần thúc đẩy giá trị xuất khẩu gia tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Ở nhóm hàng nông, thuỷ sản, các mặt hàng ghi nhận sự tăng trưởng mạnh về giá xuất khẩu bình quân so với cùng kỳ là hạt tiêu (tăng 51,3%) và cao su (tăng 30%). Trong đó, xuất khẩu cao su đạt 919 nghìn tấn, tăng 34,2% so với cùng kỳ, cùng với mức giá xuất khẩu bình quân khoảng 1.678 USD/tấn, tăng 30% so với cùng kỳ giúp trị giá xuất khẩu cao su đạt 1,54 tỷ USD, tăng 74.5%, là mặt hàng tăng cao nhất trong nhóm hàng nông, thuỷ sản.
Với nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản, dầu thô và xăng dầu các loại là các mặt hàng tuy giảm về sản lượng xuất khẩu (lần lượt giảm 34,1% và 7,1%) nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng kim ngạch tích cực (lần lượt tăng 3,3%, đạt 945 triệu USD và 17,1%, đạt 742 triệu USD) do giá xuất khẩu bình quân tăng mạnh so với cùng kỳ (lần lượt tăng 56,8% và 26%).
Trong khi đó, ở nhóm hàng công nghiệp chế biến, giá xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất đều tăng so với cùng kỳ, cụ thể: sắt thép các loại (tăng 51,2%), chất dẻo nguyên liệu (tăng 39,8%), xơ, sợi dệt các loại (tăng 25,1%). Theo đó, đóng góp vào mức tăng ấn tượng về kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này. Cụ thể, sắt thép các loại tăng 121,3%, đạt 5,6 tỷ USD; chất dẻo nguyên liệu tăng 73,2%, đạt 1,2 tỷ USD; xơ, sợi dệt các loại tăng 65%, đạt 3,1 tỷ USD.
Ban Chỉ đạo 35 cho rằng, dù tăng trưởng tích cực nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã chậm lại hơn so với nhập khẩu trong những tháng gần đây khiến cán cân thương mại thay đổi từ xuất siêu thành nhập siêu từ tháng 4/2021. Kết quả này phần lớn là do ảnh hưởng tiêu cực của làn sóng thứ tư của dịch COVID-19 ở Việt Nam.
Đại dịch COVID-19 khiến các doanh nghiệp trong ngành phải đối diện với nhiều khó khăn. Có thể kể đến việc tổ chức sản xuất bị hạn chế, vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm mất nhiều thời gian hơn do các địa phương thực hiện giới hạn lượng phương tiện lưu chuyển, năng lực lưu bãi, khai thác tại một số cảng đang ở mức cao và khó duy trì lâu dài. Ở thời điểm hiện nay, so với cùng kỳ các năm là giai đoạn sản xuất quan trọng để chuẩn bị nguồn hàng phục vụ các đơn hàng cuối năm tại thị trường Mỹ, EU, dịch bệnh chưa được khắc phục cũng là vấn đề hết sức khó khăn đối với khả năng đáp ứng đơn hàng của đối tác...
Nguyệt Minh
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm