Dệt may, da giày, rau quả, thịt... hưởng lợi thuế như thế nào khi EVFTA có hiệu lực?
Xuất khẩu thủy sản: Gỡ “điểm nghẽn” thị trường Trung Quốc / Xuất khẩu cà phê mang về hơn 1,3 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2019
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội sẽ là không ít những thách thức, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự chuẩn bị cho lộ trình theo nội dung cam kết trong Hiệp định. Dưới đây là lộ trình cam kết cụ thể một số ngành khi EVFTA có hiệu lực theo tổng hợp từ Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC).
Đối với ngành Dệt may
Các sản phẩm dệt may của Việt Nam mặc dù được đánh giá là một trong những ngành nghề được hưởng lợi nhất từ việc EVFTA có hiệu lực. Tuy vậy, để có thể được giảm thuế theo quy định tại hiệp định, các sản phẩm phải tuân thủ chặt chẽ các quy tắc về xuất xứ.
Cụ thể, để sản phẩm may mặc được miễn thuế phải thỏa mãn 2 điều kiện sau: thứ nhất, vải sử dụng để tạo ra thành phẩm phải có xuất xứ từ Việt Nam hoặc EU; thứ hai, việc cắt và may phải được thực hiện tại Việt Nam hoặc EU.
EVFTA cũng có cam kết linh hoạt về quy tắc xuất xứ cộng gộp. Tiêu biểu là đối với trường hợp nếu vải được doanh nghiệp sử dụng có xuất xứ từ nước có FTA với EU và cả Việt Nam (như Hàn Quốc), sản phẩm của doanh nghiệp cũng được coi là xuất xứ hợp lệ để được hưởng ưu đãi thuế theo quy định tại hiệp định EVFTA.
Nếu có thêm bất kỳ nước nào trong tương lai có hiệp định FTA với cả Việt Nam và EU như trường hợp của Hàn Quốc, Việt Nam sẽ thông báo cho Ủy ban Hải quan của EVFTA và Ủy ban này sẽ quyết định việc có cho phép cộng gộp hay không.
Mặc dù quy tắc xuất xứ trong EVFTA có lỏng hơn so với CPTPP nhưng vẫn đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam do phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang chỉ thực hiện công đoạn may cắt chứ chưa sản xuất vải và sợi.
Thêm vào đó, nguyên liệu (vải) đa phần có xuất xứ từ Trung Quốc và Đài Loan – là những nước chưa có hiệp định FTA với EU. Do vậy, để có thể tối đa hóa lợi ích thu được từ EVFTA, cần chú trọng phát triển ngành công nghiệp dệt và công nghiệp phụ trợ ngành dệt may nhằm cung cấp nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp may – cắt.
Thêm vào đó, cần phải tăng cường việc sử dụng vải có xuất xứ từ Hàn Quốc sớm để có thể tận dụng được lợi ích từ hiệp định EVFTA trong khi ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển kịp.
Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể tận dụng việc hiệp định EVFTA ký kết và nhập khẩu các nguyên vật liệu (đặc biệt là vải) có xuất xứ từ châu Âu, qua đó nâng cao giá trị và chất lượng của sản phẩm.
Nhóm sản phẩm EU cam kết loại bỏ thuế theo lộ trình bao gồm phần lớn các sản phẩm may mặc mà Việt Nam đang xuất khẩu sang EU. Hiện tại, nhóm này đang được hưởng mức thuế ưu đãi trung bình là 9% theo Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP - ưu đãi mà EU đơn phương dành cho cho các sản phẩm chưa có năng lực cạnh tranh tốt từ các nước đang/kém phát triển nhất định theo các tiêu chí mà EU quyết định). Sau khi EVFTA có hiệu lực, GSP sẽ tự động chấm dứt, các mức thuế nhập khẩu đối với hàng may mặc sẽ giảm dần đều xuống 0% tính từ mức MFN (khoảng 12%) theo lộ trình 3-7 năm.
Như vậy, trong một vài năm đầu thực hiện EVFTA, phần lớn các sản phẩm may mặc sẽ chưa được hưởng lợi từ EVFTA (do mức thuế giảm từ 12% vẫn sẽ cao hơn mức 9% theo GSP). Nhưng khi lộ trình cắt giảm thuế kết thúc, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ hưởng lợi đáng kể từ EVFTA do các ưu đãi thuế quan theo EVFTA là ổn định (trong khi GSP thì biến động tùy vào quyết định mỗi năm của EU) và giảm dần xuống 0%.
Bên cạnh đó, phần lớn các nước xuất khẩu dệt may vào EU hiện nay đều chưa có FTA với EU, do vậy nếu các doanh nghiệp Việt đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ, EVFTA mở ra cơ hội rất lớn cho xuất khẩu dệt may Việt Nam.
EVFTA mở ra cơ hội rất lớn cho xuất khẩu dệt may Việt Nam nếu đáp ứng yêu cầu về xuất xứ. |
Đối với ngành Giày dép
Với EVFTA, EU cam kết loại bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực cho 37% số dòng thuế ngành giày dép (các loại giầy chống thấm cao su/nhựa, dép lê và dép đi trong nhà, nguyên phụ liệu ngành giày dép…). Số còn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 7 năm.
Tuy nhiên, tương tự như nhóm ngành dệt may, nhóm sản phẩm giày dép được EU cam kết loại bỏ thuế ngay là các sản phẩm mà Việt Nam ít gia công hoặc xuất khẩu vào EU. Do đó Việt Nam dự kiến sẽ ít được hưởng lợi từ nhóm cam kết này.
Với nhóm sản phẩm EU cam kết loại bỏ thuế theo lộ trình từ 3-7 năm, bao gồm phần lớn các sản phẩm giày dép mà Việt Nam đang xuất khẩu sang EU. Hiện tại, nhóm này đang được hưởng mức thuế ưu đãi trung bình 3-4% theo Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập GSP.
Khi EVFTA có hiệu lực, GSP sẽ tự động chấm dứt, các mức thuế nhập khẩu đối với giày dép sẽ giảm dần đều xuống 0% tính từ mức MFN (khoảng 12,4%) theo lộ trình 3- 7 năm.
Như vậy, trong một vài năm đầu thực hiện EVFTA, phần lớn các sản phẩm giầy da sẽ không được hưởng lợi từ EVFTA, thậm chí là bị ảnh hưởng bất lợi do mức thuế giảm dần đều từ mức 12,4% vẫn sẽ cao hơn mức 3-4% theo GSP.
Đối với ngành Rau quả
EU cam kết mở cửa rất mạnh cho rau quả Việt Nam trong EVFTA bằng việc xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực 94% trong tổng số 547 dòng thuế rau quả và các chế phẩm từ rau quả, trong đó có nhiều sản phẩm là thế mạnh của Việt Nam như vải, nhãn, chôm chôm, thanh long, dứa, dưa…; 24 dòng thuế (chiếm 4,4%) chịu áp thuế “giá nhập cảnh” (entry price), gồm nhóm dưa chuột tươi và ướp lạnh, chanh…; 08 dòng thuế áp hạn ngạch, chủ yếu ở một số sản phẩm trong nhóm nấm chi agaricus, ngô ngọt…; và 01 dòng thuế duy trì thuế nhập khẩu.
Phần lớn các dòng thuế EU cam kết xóa bỏ ngay hiện đều đang có mức thuế MFN trung bình là trên 10%, cá biệt có những sản phẩm rau quả đang chịu thuế trên 20%.
Như vậy, mức cam kết này của EU được đánh giá là sẽ tạo ra lợi thế lớn về giá cho rau quả Việt Nam, đặc biệt trong cạnh tranh nhập khẩu vào EU với các nước có thế mạnh về rau quả chưa có FTA với EU như Thái Lan, Trung Quốc,...
Với lộ trình loại bỏ thuế tương đối dài áp dụng cho phần lớn các sản phẩm rau quả, dự kiến EVFTA sẽ tạo ra khoảng thời gian tương đối để người sản xuất, kinh doanh rau quả Việt Nam thích ứng với việc không còn hàng rào thuế.
Bên cạnh đó, sản phẩm EU có thế mạnh phần lớn là các loại rau quả ôn đới, ít cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam. Vì vậy, mặc dù cắt giảm, tiến tới loại bỏ thuế đối với rau quả từ mức 10-40% hiện nay với các sản phẩm từ EU tuy nhiên dự kiến EVFTA sẽ không tạo ra sức ép cạnh tranh quá lớn cho rau quả Việt Nam trên thị trường nội địa.
Đối với các sản phẩm thịt
EU cam kết mở cửa mạnh cho các sản phẩm chăn nuôi từ Việt Nam, loại bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với các dòng thuế đối với động vật sống, thịt trâu bò, thịt lợn. Loại bỏ thuế trong vòng 7 năm (một vài trường hợp là 5 năm) đối với các sản phẩm từ gia cầm và một vài sản phẩm chế biến từ bò và lợn.
Mức cắt giảm này được xem là tương đối lớn, tuy nhiên, do Việt Nam hiện chủ yếu xuất khẩu các loại trâu, bò, lợn, gà sống, trong khi EU chủ yếu nhập khẩu các sản phẩm thịt nên cơ hội thuế quan từ EU chỉ trở thành hiện thực nếu các doanh nghiệp Việt Nam chuyển hướng sang xuất khẩu các sản phẩm mà EU quan tâm.
Việt Nam cam kết mở cửa rất dè dặt đối với nhóm sản phẩm này, theo đó Việt Nam sẽ loại bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với bò, lợn, gà sống nhập khẩu từ EU. Loại bỏ thuế theo lộ trình dài 7-10 năm đối với tất cả các loại thịt bò, lợn, gà tươi hoặc đông lạnh.
Với mức bảo hộ khá kỹ này, tác động của EVFTA đối với ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ được cho là sẽ không quá đột ngột, và ngành sẽ có khoảng thời gian tương đối dài để điều chỉnh, thích ứng với cạnh tranh.
Nhập khẩu các sản phẩm thịt từ EU vào Việt Nam hiện vẫn còn tương đối nhỏ, tuy nhiên, khi các mức thuế MFN rất cao hiện nay (10-40%) được cắt giảm dần và loại bỏ khi hết lộ trình, rất có thể tỷ trọng và kim ngạch nhập khẩu từ EU sẽ tăng đáng kể.
Cùng với sự cắt giảm về thuế, các yếu tố khác như tâm lý người tiêu dùng muốn sử dụng sản phẩm bảo đảm vệ sinh, chất lượng sẽ làm gia tăng cạnh tranh đáng kể cho ngành chăn nuôi Việt Nam tại thị trường nội địa. Đây là áp lực đối với những doanh nghiệp trong ngành chăn nuôi, chế biến thực phẩm khi lộ trình cắt giảm thuế hoàn thành.
Đối với ngành Sữa
Mặc dù EU sẽ xóa bỏ toàn bộ thuế quan lên các sản phẩm sữa của Việt Nam sau khi hiệp định EVFTA có hiệu lực, các doanh nghiệp sữa của Việt Nam gần như không được hưởng lợi gì từ việc này do EU vẫn chưa cấp phép nhập khẩu sữa có xuất xứ từ Việt Nam.
Thêm vào đó, việc hiệp định EVFTA có hiệu lực sẽ tạo sức ép canh tranh lên các doanh nghiệp sữa của Việt Nam do phải cạnh tranh với các sản phẩm sữa nhập khẩu từ EU vốn có ưu thế về chất lượng, dinh dưỡng và độ an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng.
Tuy nhiên, áp lực này hiện chưa đáng kể, do các sản phẩm sữa mà Việt Nam hiện nhập khẩu khá nhiều từ EU bao gồm: sữa whey và các biến thể, bơ, pho mát, sữa bột và kem dạng bột. Các sản phẩm này đang chiếm tỷ trọng nhỏ trong tiêu thụ các sản phẩm sữa ở thị trường Việt Nam.
End of content
Không có tin nào tiếp theo