Hà Nội có nồng độ ô nhiễm bụi mịn cao nhất cả nước
Ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, Thủ tướng ra Chỉ thị tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí / Phòng, chống ô nhiễm không khí còn gian truân bởi không thể “bắt đúng bệnh"
Ô nhiễm không khí là một trong những vấn đề sức khỏe môi trường lớn nhất mà hầu hết các thành phố ở các nước đang phát triển đang phải đối mặt. Ước tính khoảng 7 triệu ca tử vong sớm hàng năm trên toàn thế giới liên quan đến ô nhiễm không khí ngoài trời và trong nhà (WHO, 2018).
Trong số tất cả các chất gây ô nhiễm không khí, bụi mịn với đường kính động học nhỏ hơn 2,5 micromet (PM2,5) là chất ô nhiễm được quan tâm nhiều nhất do chúng gây tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng cũng như đến hệ thống khí hậu.
Tại Việt Nam, thông tin về hiện trạng chất lượng và ô nhiễm không khí đang nhận được sự quan tâm lớn từ các cơ quan quản lý, cộng đồng nói chung và truyền thông nhằm đưa ra các biện pháp quản lý, các hành động chung tay nhằm cải thiện chất lượng không khí và sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, các phương pháp quan trắc chất lượng không khí hiện nay còn nhiều hạn chế. Các hạn chế này khiến việc theo dõi và kiểm soát chất lượng không khí, đặc biệt tình trạng ô nhiễm bụi mịn PM2,5, trở nên khó khăn và chưa toàn diện.
Trong bối cảnh đó, Trung tâm Công nghệ tích hợp liên ngành giám sát hiện trường (FIMO) - thuộc Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội - và Trung tâm Sống và Học tập vì Môi trường và Cộng đồng (Live&Learn) phối hợp xây dựng Báo cáo Chất lượng Không khí - Tiếp cận đa nguồn trong giám sát bụi PM2,5 cùng các chuyên gia trong nước và quốc tế trong khuôn khổ Dự án “Chung tay vì Không khí Sạch” do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ. Báo cáo sẽ phân tích nồng độ bụi PM2,5 dựa trên dữ liệu ảnh vệ tinh kết hợp với dữ liệu trên mặt đất (trạm truyền thống và mạng lưới trạm cảm biến) để cung cấp thông tin về hiện trạng chất lượng không khí trên toàn quốc tại Việt Nam.
Nhóm nghiên cứu hy vọng với báo cáo này có thể cung cấp một số phát hiện từ bản đồ để hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách trong quản lý chất lượng không khí trong tương lai.
Báo cáo này cho thấy, khu vực có nồng độ bụi mịn PM 2.5 cao nhất tập trung ở khu vực đồng bằng sông Hồng (Hà Nội và các tỉnh lân cận), và giảm dần tại một phần duyên hải miền Trung và một phần tại đồng bằng sông Cửu Long (Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận), là những khu vực có tốc độ đô thị hóa cao.
Thêm vào đó, nồng độ bụi PM2,5 trung bình năm tại khu vực đồng bằng sông Hồng cao là do khu vực này tập trung đông dân cư, nhiều khu công nghiệp và nhà máy sản xuất điện. Đồng thời, khu vực này cũng bị ảnh hưởng một phần của điều kiện khí tượng bất lợi vào mùa đông làm cho chất ô nhiễm khuếch tán kém, khiến cho giá trị nồng độ bụi PM2,5 trung bình năm ở các tỉnh thành khu vực phía Bắc cao hơn so với khu vực phía Nam. Khu vực miền núi như Tây Bắc và cao nguyên là những khu vực có nồng độ bụi PM2,5 thấp, nguyên nhân có thể là do những khu vực này có mật độ dân cư thấp và ít các khu công nghiệp so với các khu vực còn lại những tỉnh/thành nằm ở khu vực phía Bắc, đặc biệt là khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng có nồng độ bụi PM2,5 có trọng số dân số cao hơn các khu vực còn lại.
Bản đồ nồng độ bụi mịn PM2,5 có trọng số dân số theo tỉnh/thành tại Việt Nam năm 2019.
Dựa trên hình ảnh của bản đồ báo cáo này có thể nhận xét sơ bộ là, 18/63 tỉnh/thành trên cả nước có nồng độ bụi PM2,5 có trọng số dân số cao hơn giá trị nồng độ bụi PM2,5 trung bình năm được quy định. Trong số đó, 14/18 tỉnh có giá trị vượt ngưỡng là các tỉnh thuộc khu vực miền Bắc (trong đó có Hà Nội), 2 tỉnh là Hà Tĩnh, Nghệ An thuộc khu vực miền Trung, và 2 tỉnh là TP. Hồ Chí Minh và Bình Dương thuộc khu vực miền Nam
Theo đó, chỉ số bụi PM2,5 tại các quận nội thành và thị trấn/huyện ngoại thành có sự chênh lệch rõ rệt. Tại các quận nội thành, chỉ số này dao động trong khoảng 37,1 - 38,4𝜇g/m3, cao nhất tại Hoàn Kiếm và thấp nhất tại Nam Từ Liêm và Tây Hồ. Trong khi đó, giá trị này tại các huyện ngoại thành biến thiên trong khoảng 28,8 - 35,8𝜇g/m3 .
Như vậy, kết quả này thể hiện rõ sự ảnh hưởng của mật độ dân cư đến sự phân bố không gian của bụi PM2,5. Các phân tích chuyên sâu hơn đang được nhóm nghiên cứu thực hiện và dự kiến sẽ công bố kết quả trong năm 2021. Hạn chế và kiểm chứng dữ liệu cũng đã được nhóm nghiên cứu thực hiện kiểm chứng dữ liệu bản đồ bụi PM2,5 trung bình ngày và trung bình năm với giá trị đo đạc tại 13 trạm quan trắc hiện có trên toàn quốc (1 tại Phú Thọ, 1 tại Quảng Ninh, 8 tại Hà Nội, 1 tại Huế, 1 tại Đà Nẵng, 1 tại Hồ Chí Minh).
Bản đồ nồng độ bụi PM2,5 có trọng số dân số theo quận/huyện tại Hà Nội năm 2019.
Kết quả là, đối với bản đồ bụi trung bình ngày cho năm 2019, giá trị ước tính bụi PM2,5 tại trạm Đà Nẵng có tương quan R 2 thấp, các trạm còn lại có tương quan dao đôṇ g từ 0,42 – 0,93. Điều này thể hiện bản đồ có thể biểu diễn sự biến thiên của bụi PM2,5 theo ngày trên phạm vi toàn quốc. Đối với kiểm chứng bản đồ bụi PM,.5 trung bình năm 2019, giá trị ước tính PM2,5 của bản đồ thấp hơn so với trạm tại các trạm quan trắc ở Hà Nôị và cao hơn tại các trạm quan trắc ở Quảng Ninh, Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh (xem hình 5). Sai số tuyệt đối (Root Mean Square Error - RMSE) chung của tất cả các trạm đạt 4,36 (µg/m³) và sai số tương đối (Mean Relative Error - MRE) đạt 8,96%.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra, bản đồ nồng độ bụi PM2,5 do nhóm nghiên cứu xây dựng có độ bất định thấp ở những khu vực có trạm quan trắc và độ bất định cao ở những khu vực không hoặc có ít trạm quan trắc, do hiện trạng mạng lưới trạm quan trắc còn rất hạn chế tại Việt Nam.
Ngoài ra, sự phân bố không gian của nồng độ bụi PM2,5 trên phạm vi toàn quốc có thể là vấn đề gây nhiều tranh cãi và không thể kiểm chứng do số lượng trạm quan trắc ít, các số liệu kiểm kê phát thải cho từng tỉnh còn thiếu chi tiết, chính xác và cập nhật, các yếu tố ảnh hưởng đến phân bố bụi mịn PM2,5 như vị trí địa lý, điều kiện khí hậu khí tượng trên tất cả các vùng khí hậu còn chưa được nghiên cứu đầy đủ.
End of content
Không có tin nào tiếp theo