Phòng, chống ô nhiễm không khí còn gian truân bởi không thể “bắt đúng bệnh"
DNVN - Mặc dù không khí Hà Nội đã ô nhiễm từ hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng, công tác phòng, chống ô nhiễm còn gian truân bởi không thể “bắt đúng bệnh"
Dự báo mới nhất về thời tiết Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 / Doanh nghiệp nhỏ và vừa được hỗ trợ pháp lý liên ngành
Chủ đề này đã được các chuyên gia, các nhà khoa học chia sẻ, phân tích tại Tọa đàm “Không khí Hà Nội ô nhiễm ở mức nào?” do Tạp chí Tia Sáng, Mạng lưới Không khí Sạch Việt Nam (VCAP) và Trung tâm Sống và Học tập Vì môi trường và Cộng đồng (Live&Learn) đồng tổ chức mới đây.
Dựa trên các nghiên cứu từ trước đến nay, PGS.TS Nghiêm Trung Dũng,Viện Khoa học và Công nghệ môi trường - INEST, trường ĐH Bách Khoa Hà Nội) chỉ ra rằng, không khí Hà Nội đã ô nhiễm từ hơn 20 năm qua. Nồng độ bụi trung bình năm, đặc biệt là bụi PM2.5, cao hơn so với quy chuẩn Việt Nam (QCVN 05:2013/BTNMT) và so với nhiều nước châu Á.
Theo sự phát triển của thành phố, kích thước bụi càng nhỏ dần. Trước đây, Việt Nam quy định về tiêu chuẩn bụi lơ lửng TSP, sau đó dần dần hạ xuống các loại bụi có kích thước nhỏ hơn như PM10, PM2.5 và có thể tương lai là bụi nano PM0.1. Bụi PM2.5 và bụi nano có thể đi vào phổi, mạch máu và hệ thần kinh, do vậy mức độ quan tâm về ô nhiễm các loại bụi này đang ngày càng tăng.
Về nguồn phát thải PM2.5: Theo một công bố của Cohen và cộng sự vào năm 2010 (lấy mẫu giai đoạn 2001-2008): Giao thông chiếm 40%; Đốt sinh khối: 13%; Công nghiệp thép và xi măng: 19%; Đốt than đá: 17%; Sulfate thứ cấp: 7.8%; Bụi bốc lên từ đất: 3.4%.
Về nguồn phát thải bụi nano: Theo công bố của ông Nghiêm Trung Dũng và cộng sự vào năm 2020 (lấy mẫu giai đoạn 11-12/2015): Giao thông chiếm 46.28% ; Thứ cấp: 31.18%; Đun nấu sinh hoạt và kinh doanh nhỏ (đốt than): 12.23%; Công nghiệp: 6.05% ; Bụi đường và bụi xây dựng: 2.92%.
Không khí Hà Nội đã ô nhiễm từ hơn 20 năm qua. (Ảnh: TC DĐDN)
Tuy nhiên, với các chất ô nhiễm dạng khí như NO2, SO2, O3..., hiện chưa có các nghiên cứu rõ ràng chỉ ra nguồn thải của từng loại chất này.
“Chừng nào chúng ta chưa xác định được nguồn thải chính, chừng đó công tác phòng chống ô nhiễm còn gian truân bởi không thể “bắt được đúng bệnh”, PGS. TS. Nghiêm Trung Dũng chia sẻ.
Các nghiên cứu trước đây về ô nhiễm bụi PM2.5 cho Hà Nội cho thấy mức độ đóng góp của nguồn giao thông có thể dao động từ 10-50% tùy thời kỳ. Về cơ bản, giao thông cơ giới là một trong những nguồn chính phát thải bụi (và có thể cả các hợp chất hữu cơ VOC) tại Hà Nội. Tuy nhiên, với các ô nhiễm không khí dạng khí, hiện chưa có số liệu về mức đóng góp định lượng của các nguồn thải.
Ông nhấn mạnh rằng một trong những lý do khó đưa ra được giải pháp khả thi vì số lượng các nghiên cứu còn rất mỏng, cả về thời gian lẫn số lượng các địa điểm được đo đạc, dẫn đến thiếu số liệu để đưa ra giải pháp hay đánh giá mức độ hiệu quả của giải pháp.
Cần đầu tư cho nghiên cứu nhiều hơn để “bắt đúng bệnh”
Chia sẻ các cách tiếp cận dữ liệu mới để đánh giá chất lượng không khí, PGS. TS. Nguyễn Thị Nhật Thanh nói đến phương pháp mô hình hóa - bao gồm mô hình số trị và mô hình học máy thống kê. Phương pháp này giúp đưa ra bức tranh không gian của các chất ô nhiễm không khí, kể cả tại những ở nơi không có trạm đo và có thể dự báo về diễn biến trong tương lai gần của các chất ô nhiễm không khí.
The PGS.TS. Nguyện Thị Nhật Thanh, Trung tâm Công nghệ tích hợp liên ngành Giám sát hiện trường - FIMO, Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội: Hiện đang có thêm các nhóm trong nước và quốc tế nghiên cứu về dự báo ô nhiễm không khí. Mặc dù đây là một lĩnh vực còn non trẻ và chưa thể có nhiều kinh nghiệm như lĩnh vực dự báo thời tiết, TS. Nguyễn Thị Nhật Thanh kỳ vọng trong vòng 2-3 năm tới, việc dự báo ô nhiễm không khí có thể đạt được những kết quả khả quan.
Tại tọa đàm, các chuyên gia cho rằng, Nhà nước phải đầu tư cho nghiên cứu và công khai số liêụ quan trắc chất lượng không khí. So với các nghiên cứu về nước thải và rác thải, mức đầu tư cho nghiên cứu không khí rất thấp, kéo theo ít nhân lực chuyên môn về không khí.
Trách nhiệm cải thiện chất lượng không khí cũng nằm ở các chủ nguồn thải. Chính người dân cũng nên tự hỏi rằng mình có sẵn sàng thực hiêṇ và chi trả cho các giải pháp cải thiện chất lượng không khí hay không?
Theo TS. Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam - VCAP, và PGS Nghiêm Trung Dũng, để có được bức tranh toàn cảnh, điểm cốt yếu là phải kiểm kê phát thải định kỳ, xem mỗi nguồn phát thải đóng góp bao nhiêu % vào không khí ô nhiễm. Ví dụ như phải nắm được trong khoảng 2015-2020, ở Hà Nội thì giao thông phát thải bao nhiêu phần trăm, tương tự với sản xuất, xây dựng, đốt sinh khối, đốt rác... Và phải kỹ hơn nữa, là trong giao thông thì phương tiện gì đóng góp bao nhiêu phần trăm.
Các chuyên gia cho rằng, để làm được việc này, Nhà nước phải đầu tư cho việc lấy số liệu theo hai cách: trên xuống dưới và dưới lên trên. Từ trên xuống dưới nghĩa là dựa vào hệ số phát thải, nhiên liệu sử dụng để tính toán, từ dưới lên nghĩa là tính toán, đo đạc trên thực tế.
Theo TS. Hoàng Dương Tùng “kiểm kê phát thải là việc chắc chắn phải làm, nếu không làm thì sẽ không có chính sách đúng. Chúng ta cứ mãi mãi cãi nhau về giao thông, hay là sản xuất, hay là đốt rơm rạ... cái nào là nguồn phát thải cần ưu tiên xử lý.
Minh Thu
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Xem nhiều nhất
Cột tin quảng cáo