Tin tức - Sự kiện

Năm 2015 của Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội cần chủ động, linh hoạt hơn trong công tác điều hành

Năm 2014, nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Trong nước tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi nhưng môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, nhu cầu cho phát triển kinh tế, an sinh xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh rất lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp…

Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền

 

Trong bối cảnh đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo toàn ngành thường xuyên nghiên cứu, phát hiện, chủ động, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành phù hợp với tinh hình thực tế, góp phần thực hiện  thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Quốc hội, Chính phủ giao.

 

Với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp và sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành, lĩnh vực lao động, người có công và xã hội năm 2014 đã cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Kết quả cụ thể như sau: Cả nước giải quyết việc làm khoảng 1,6 triệu lao động, đạt 100% kế hoạch, tăng 3,6% so với thực hiện năm 2013, trong đó tạo việc làm trong nước khoảng 1,49 triệu lao động, đạt 98,8% kế hoạch, tăng 2,7% so với năm 2013.

 

Xuất khẩu lao động khoảng 105 nghìn người, đạt 120,68% kế hoạch, bằng hơn 119% so với thực hiện năm 2013. Các chương trình, dự án về phát triển thị trường lao động được tiến hành đồng bộ, hiệu quả. Thị trường xuất khẩu lao động tiếp tục được củng cố và phát triển: thị trường truyền thống được giữ vững, một số thị trường trọng điểm có mức tăng trưởng cao như Đài Loan tăng 29,4%, Nhật Bản tăng 96,1%...

 

Lần đầu tiên số lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài đạt trên 100 nghìn, góp phần quan trọng đạt mục tiêu giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho người lao động. 

 

Cơ chế, chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, an toàn vệ sinh lao động tiếp tục được hoàn thiện. Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp từng bước được củng cố và phát triển. Tranh chấp lao động, đình công có xu hướng giảm, đời sống của người lao động được cải thiện (tính đến 31/12 cả nước xảy ra 268 cuộc đình công, giảm 87 cuộc so với năm 2013).

 

Bảo hiểm xã hội tiếp tục phát triển: Tính đến tháng 11/2014, số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là gần 11,45 triệu người, tăng khoảng 7,2% so với cùng kỳ năm 2013; số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 196.254 người, tăng khoảng 25,8%  so với cùng kỳ năm 2013. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động được thực hiện ngày càng tiến bộ, góp phần giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống và giúp người lao động tìm được việc làm mới.

 

Đến nay có 9,13 triệu người đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Trong năm 2014 có 514.853 người hưởng trợ cấp thất nghiệp; 457.273 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm và 18.096 người được hỗ trợ học nghề.

 

Quản lý Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động từng bước được nâng cao. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; xử lý nghiêm các vi phạm, các sự cố nghiêm trọng xảy ra trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động được tăng cường. 

 

Hệ thống dạy nghề tiếp tục được đổi mới, phát triển gắn với nhu cầu thị trường lao động, doanh nghiệp và hội nhập quốc tế. Tính đến hết năm 2014 cả nước có 1.465 cơ sở dạy nghề, gồm 173 trường cao đẳng nghề, 301 trường trung cấp nghề và 991 trung tâm dạy nghề.

 

Các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề được tăng cường, đầu tư cho dạy nghề theo hướng tập trung, đồng bộ theo các nghề trọng điểm tránh lãng phí và dàn trải, góp phần nâng cao chất lượng dạy nghề và gắn với thị trường lao động.

 

Cơ chế đặt hàng dạy nghề, liên kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, làng nghề, vùng chuyên canh về nông, lâm, ngư nghiệp, bước đầu phát huy hiệu quả góp phần tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động. Năm 2014, cả nước tuyển mới dạy nghề gần 1,9 triệu người, đạt 106,6% kế hoạch, tăng 14,3% so với thực hiện năm 2013, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo trên cả nước đạt 49%.

 

Đáng chú ý là năm qua, nước ta đã tổ chức thành công Kỳ thi tay nghề ASEAN lần thứ 10 tại Việt Nam.

 

Đoàn Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xếp thứ nhất toàn đoàn. Dạy nghề cho lao động nông thôn ngày càng được khẳng định, tạo điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu lao động và xây dựng nông thôn mới, góp phần tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất; tăng thu nhập.

 

Có trên 30% người lao động sau học nghề đã tìm được việc làm mới hoặc đã thành lập doanh nghiệp, tổ hợp tác sau học nghề. 

 

Công tác giải quyết chính sách đối với người có công được tập trung thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ. Về Chương trình Tổng rà soát chính sách ưu đãi người có công đối với cách mạng theo Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 27/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ, tính đến 12/01/2015 đã có 59/63 tỉnh/thành phố và Bộ Công an báo cáo, kết quả các tỉnh, thành phố đã thực hiện tổng rà soát hơn 1,92 triệu đối tượng, trong đó hưởng đúng chế độ  chiếm hơn 95%.

 

Số đối tượng hưởng chưa đầy đủ chế độ hoặc hưởng sai chiếm tỷ lệ nhỏ. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, người có công” được phát triển sâu rộng ở tất cả các địa phương.

 

Đến cuối năm 2014 có 96% hộ gia đình chính sách người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình hộ dân cư nơi cư trú; 95% xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công.

 

Bộ LĐTBXH phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp theo Nghị quyết số 80/NQ-CP của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020; Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 - 2015 theo hướng ưu tiên tập trung nguồn lực, xây dựng các giải pháp cụ thể, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững đối với những địa bàn khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi...

 

Nhìn chung, người nghèo đã tiếp cận tốt hơn các chính sách trợ giúp của Nhà nước. Cơ sở hạ tầng nông thôn được tăng cường trên cơ sở triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới.

 

Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và các huyện, xã nghèo giảm nhanh, đời sống của người nghèo được từng bước cải thiện. Đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 1,8 - 2%/năm so với cuối năm 2013 (từ 7,8% xuống còn 6 - 5,8%); riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5%/năm (từ 38,20% năm 2013 xuống còn 33,20% năm 2014).

 

Cùng với đó, toàn Ngành đã thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách đã ban hành cho đối tượng bảo trợ xã hội; Thực hiện trợ cấp xã hội thường xuyên cho gần 2,7 triệu đối tượng tại cộng đồng với tổng kinh phí khoảng 9.000 tỷ đồng; Nghiên cứu, điều chỉnh bổ sung chính sách, nâng mức trợ cấp xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước và địa phương; cải thiện, nâng cao mức sống cho đối tượng xã hội. 

 

Trong năm qua, Bộ đã tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra các địa phương thực hiện kế hoạch bảo vệ, chăm sóc trẻ em, qua đó đảm bảo thực hiện các quyền trẻ em; nâng cao chất lượng chăm sóc, trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại các cơ sở bảo trợ xã hội và tại cộng đồng. Tiếp tục kiện toàn và phát huy hiệu quả hệ thống Quỹ Bảo trợ trẻ em các cấp; đổi mới hình thức, nội dung vận động, hoạt động của quỹ.

 

Công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được thực hiện đồng bộ trên cơ sở triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020. Bình đẳng giới trong lao động việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế, lãnh đạo, quản lý ngày càng có những cải thiện đáng kể; bình đẳng giới thực chất về quyền, đối xử, cơ hội giữa nam và nữ được đẩy mạnh.

 

Hoạt động cai nghiện ma túy được triển khai bám sát các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại các Chương trình, đề án phòng, chống ma túy và đổi mới công tác cai nghiện ma túy, ngăn chặn số đối tượng phát sinh mới, góp phần chuyển hóa các địa bàn phức tạp về tệ nạn xã hội. 

 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác lao động, người có công và xã hội năm 2014 vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Kết nối cung - cầu trên thị trường lao động vẫn còn diễn ra tình trạng mất cân đối cục bộ ở từng địa phương, nhất là các khu công nghiệp phía Nam. Chất lượng việc làm chưa cao, việc làm chưa ổn định, thiếu việc làm hoặc không có việc làm thường xuyên, năng suất lao động thấp.

 

Nguồn lao động xuất khẩu còn hạn chế cả về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và ý thức tổ chức kỷ luật. Vẫn còn tình trạng nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định của pháp luật lao động về quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động không được phát hiện và xử lý kịp thời, tạo nguy cơ tiềm ẩn tranh chấp lao động và đình công.

 

Tuyển sinh dạy nghề trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề không đạt kế hoạch. Chất lượng, hiệu quả dạy nghề ở một số địa phương, cơ sở dạy nghề còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ của thị trường lao động. 

 

Kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Nguồn lực cho giảm nghèo còn bị phân tán, hiệu quả tác động đến đối tượng thụ hưởng chưa cao, chưa rõ nét.

 

Một số chương trình, chính sách còn trùng lặp về đối tượng thụ hưởng, chồng chéo trong quản lý, tổ chức thực hiện nên hiệu quả chưa cao và chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo.

 

Ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60-70%. Thu nhập bình quân của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân của cả nước. 

 

Số trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực và bị tai nạn thương tích có chiều hướng giảm nhưng mức độ và tính phức tạp gia tăng.Tệ nạn nghiện ma tuý chưa được ngăn chặn có hiệu quả, tỷ lệ tái nghiện vẫn còn cao, gây bức xúc trong dư luận xã hội.

 

Đặc biệt, tình hình sử dụng ma túy tổng hợp có xu hướng tăng nhanh, nhất là tại các thành phố lớn và một số tỉnh phía Nam. Quy định của pháp luật về cai nghiện tại gia đình và cộng đồng còn nhiều bất cập.

 

Công tác thanh tra, kiểm tra còn bất cập; phạm vi lĩnh vực thanh tra rộng, trong khi số lượng cán bộ thanh tra toàn ngành ít, chất lượng đào tạo nghiệp vụ thanh tra chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác thanh tra còn rất hạn chế… 

 

Quán triệt Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch năm 2015 với một số chỉ tiêu, nhiệm vụ chủ yếu sau: 

 

1. Tạo việc làm cho 1,6 triệu người, trong đó: Tạo việc làm trong nước 1,51 triệu người; xuất khẩu lao động 90 nghìn người; 

 

2. Giảm tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước từ 1,7 - 2% so với cuối năm 2014, trong đó các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP giảm 4%.

 

3. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50%. Tuyển mới dạy nghề 2,32 triệu người, trong đó: trung cấp nghề, cao đẳng nghề 250 nghìn người; sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên dưới 3 tháng là 2,07 triệu người (trong đó hỗ trợ dạy nghề cho khoảng 550 nghìn lao động nông thôn theo chính sách của Quyết định số 1956/QĐ-TTg).

 

4. Thực hiện 98,5% hộ gia đình chính sách người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư nơi cư trú; 98% xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ người có công; huy động Quỹ đền ơn đáp nghĩa 480 tỷ đồng; trao tặng nhà tình nghĩa cho 31.050 hộ gia đình người có công với cách mạng (trong đó xây mới 17.250 nhà; sửa chữa 13.800 nhà).

 

5. Thực hiện tốt các chính sách trợ giúp xã hội cho đối tượng bảo trợ xã hội nhằm bảo đảm 100% các đối tượng bảo trợ xã hội được thụ hưởng chính sách; rà soát, nghiên cứu, điều chỉnh bổ sung chính sách, mở rộng phạm vi, đối tượng thụ hưởng. 

 

6. Thực hiện các quyền của trẻ em, tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em: 85% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp dưới các hình thức; giảm tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn xuống dưới 5,4; 70% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn phù hợp với trẻ em theo quy chuẩn mới; 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế khám chữa bệnh không phải trả tiền tại cơ sở y tế nhà nước.

 

7. Đảm bảo sự bình đẳng của phụ nữ trong tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội và gia đình. Tỷ lệ nữ trong tổng số lao động được tạo việc làm đạt 49%; trong tuyển mới dạy nghề đạt 49%.

 

8. Tổ chức cai nghiện cho 40.000 người; dạy nghề và tạo việc làm cho 15.000 người sau cai. Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức để phòng ngừa, đẩy lùi tệ nạn mại dâm; tư vấn giảm hại về phòng, chống HIV/AIDS, tư vấn hướng nghiệp, học nghề, chuyển đổi công việc, hỗ trợ vay vốn, tạo việc làm…cho đối tượng này. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng xã, phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội.

 

Để thực hiện thành công các chỉ tiêu, nhiệm vụ nêu trên, Bộ sẽ triển khai thực hiện các giải pháp chủ yếu sau: Tập trung cho công tác xây dựng thể chế; tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chú trọng nâng cao chất lượng, bảo đảm tính đồng bộ và kịp thời trong việc ban hành văn bản; thực hiện tốt công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao. 

 

Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện Chương trình công tác năm 2015 của ngành; trong đó chú trọng nâng cao vai trò, trách nhiệm Thủ trưởng các đơn vị trong tổ chức triển khai thực hiện chương trình công tác. 

 

Phát triển thị trường lao động, tạo nhiều việc làm cho người lao động, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về việc làm, phát triển đồng bộ thị trường lao động. Tăng cường triển khai, thực hiện các chính sách, giải pháp tạo việc làm.

 

Chú trọng nâng cao chất lượng việc làm theo hướng bền vững. Tập trung nghiên cứu chính sách, pháp luật và các điều kiện tiếp nhận lao động Việt Nam, mở rộng thị trường lao động ngoài nước, nhất là các thị trường có thu nhập cao, an toàn cho người lao động.

 

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, thực hiện chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, cải thiện điều kiện lao động.

 

Phát triển giáo dục nghề nghiệp, tiếp tục thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020 nhằm phát triển dạy nghề nhanh về quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề ở 3 cấp trình độ, nhất là đào tạo nghề chất lượng cao.

 

Rà soát, đánh giá quy hoạch hệ thống giáo dục nghề nghiệp; đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả giáo dục nghề nghiệp theo cơ chế thị trường, gắn với nhu cầu xã hội. Tạo sự đột phát về chất lượng giáo dục nghề nghiệp, tập trung đầu tư các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực ASEAN và quốc tế. 

 

Rà soát, sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Tiếp tục xử lý các trường hợp còn tồn đọng về xác nhận, công nhận người có công, đặc biệt với đối tượng liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy tờ, người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học.

 

Huy động mọi nguồn lực trong xã hội, cộng đồng cùng Nhà nước chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có công với cách mạng.

 

Tập trung chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ và Quốc hội về việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt  Đề án tổng thể đổi mới phương pháp tiếp cận đo lường nghèo đói ở Việt Nam từ đơn chiều sang đa chiều; ban hành chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020.

 

Phát triển các mô hình chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng; đổi mới công tác trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất...

 

Năm 2015 là năm toàn ngành hướng tới những ngày kỷ niệm trọng đại: 70 năm thành lập nước và kỷ niệm 70 năm ngày thành lập ngành (28/8/1945 - 28/8/2015), bởi vậy, toàn ngành cần nỗ lực, phát huy sức mạnh tổng hợp để hoàn thành vượt mức chỉ tiêu, nhiệm vụ trong từng cơ quan, đơn vị và toàn ngành ./.

 
Như Trâm
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo