Ngăn cản Uber, Grab cho thấy tầm nhìn chính sách hạn hẹp
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) vừa công bố "Báo cáo kinh tế Việt Nam Quý III/2017" trong đó có lưu ý về các chính sách có phần kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Theo báo cáo, mức tăng trưởng cao cùng với sự ổn định của tỷ giá và mặt bằng lãi suất có dấu hiệu giảm là những kết quả tích cực đạt được trong quý 3/2017, tạo không gian cho các hoạt động kinh tế vào quý 4. Tuy nhiên, về cơ cấu tăng trưởng, xuất siêu của khu vực FDI đang phải bù đắp cho nhập siêu của khu vực trong nước, cho thấy sự lệ thuộc về xuất khẩu vào khu vực FDI.
Ngoài ra, số việc làm tạo mới trong quý 3 giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, kéo dài chuỗi suy giảm kể từ tháng 4/2017. Tín hiệu này đặt ra yêu cầu đánh giá toàn diện chất lượng tăng trưởng, vì mục tiêu cuối cùng của tăng trưởng vẫn là tạo việc làm, chứ không phải nằm ở con số.
Về cuối năm, lạm phát có xu hướng gia tăng. Cụ thể, áp lực tăng lạm phát đến từ sự gia tăng chi phí sản xuất, điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản (giáo dục, y tế, điện, xăng dầu), chính sách tăng lương cơ bản có hiệu lực từ tháng 7/2017, sự tăng cầu tiêu dùng vào các tháng cuối năm, và gia tăng sức ép tăng trưởng tín dụng để đạt mục tiêu 21% của Chính phủ cho cả năm.
"Chúng tôi cho rằng đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao như vậy là thiếu thận trọng. Tỷ giá có cơ sở để ổn định tới cuối năm. Mặc dù lượng cầu ngoại tệ sẽ tăng cao vào cuối năm theo mùa vụ, nhưng sự ổn định tương đối của cán cân vãng lai và trạng thái thặng dư liên tục của cán cân vốn sẽ tạo nguồn cung đủ lớn cho phép NHNN tiếp tục ổn định tỷ giá trong thời gian tới", báo cáo của VEPR nêu.
Các nhà nghiên cứu của VEPR cũng lưu ý, những diễn biến kinh tế quý 3 tiếp tục bộc lộ những vấn đề về cấu trúc dài hạn của nền kinh tế.
Thứ nhất, cấu trúc thể chế kinh tế chưa đủ vững vàng trong tiến trình hội nhập kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh bùng nổ cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Tiến trình cải cách thể chế kinh tế chậm, chưa kích thích được sự sáng tạo đổi mới sâu rộng trở thành nền tảng tăng trưởng lâu dài. Vì thiếu động lực sáng tạo, giải pháp tăng trưởng thường chú trọng vào yếu tố ngắn hạn, đôi khi đi kèm với mệnh lệnh hành chính, nhằm đạt được mục tiêu tạm thời. Xa hơn, vì sự sáng tạo bao giờ cũng đi kèm với sự phá hủy công nghệ cũ và những cấu trúc liên quan, lực cản từ sự chống đối của nhóm lợi ích có nguy cơ bị thiệt thòi rất cao.
Ví dụ điển hình là sức ép gia tăng từ các hãng taxi truyền thống đối với nền tảng công nghệ mới như Uber, Grab hiện nay. Việc các chính quyền địa phương ứng xử mang tính ngăn cản đối với sự phát triển của các công nghệ mới, một mặt cho thấy họ có tầm nhìn chính sách hạn hẹp, mặt khác cho thấy khả năng bị chi phối bởi các nhóm lợi ích trong cấu trúc kinh tế cũ. Điều này phát đi những tín hiệu bất lợi cho sự du nhập công nghệ mới.
Thứ hai, Việt Nam vẫn đang ở mức thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu thấp vì dựa chủ yếu vào mức thâm dụng lao động giá rẻ, do sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là sản xuất gia công và hầu như không dựa vào tiến bộ công nghệ trên cơ sở nghiên cứu và phát triển. Yếu tố này tiếp tục giữ Việt Nam trong tư thế một điểm đến cho quá trình gia công sản phẩm, thay thế cho một số nước đang chuyển lên nấc thang cao hơn như Trung Quốc, Thái Lan.
Trong khi đó, cấu trúc dân số vàng của Việt Nam đang qua đi, với sự gia tăng của tỷ trọng người già trên tổng dân số, lợi thế về nguồn cung lao động có thể nhanh chóng mất đi. Không có chính sách chuyển đổi, nâng cao kỹ năng và năng suất lao động kịp thời, Việt Nam sẽ mất các lợi thế về chi phí sản xuất.
Thứ ba, nền kinh tế có xu hướng phụ thuộc ngày càng nhiều vào khu vực FDI. Bên cạnh cơ cấu xuất khẩu, sử dụng lao động và sản lượng công nghiệp, sự phụ thuộc này cũng thể hiện ở vai trò then chốt của tăng trưởng đầu tư từ khu vực FDI đối với sự phục hồi của tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong khi đó, chi đầu tư công tiếp tục chỉ chiếm tỷ trọng tương đối khiêm tốn so với chi thường xuyên và trả lãi và nợ gốc trong tổng chi NSNN. Thực tế này cho thấy Việt Nam có ít khả năng cải thiện năng suất toàn xã hội trong trung hạn, và đa phần thành quả kinh tế phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Trước các vấn đề trên, một trong số các giải pháp trọng tâm được các chuyên gia của VEPR đưa ra là đẩy mạnh cải cách thể chế, bảo vệ quyền sở hữu và nhà đầu tư, tạo môi trường cho phát huy sự sáng tạo công nghệ.
"Về cơ bản, chính sách cần hướng tới khai thác những tiềm năng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang diễn ra, tránh khuynh hướng phản ứng chống đối quá trình “phá hủy sáng tạo” của các ngành mới và công nghệ mới. Nếu thành công, cải cách đó sẽ góp phần tạo ra một khu vực kinh tế tư nhân năng động, hướng tới giảm sự phụ thuộc quá cao của tăng trưởng kinh tế vào khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, áp dụng tiến bộ công nghệ sẽ giúp Việt Nam lên cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu", báo cáo nêu.
Theo VEPR, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mạnh mẽ hơn dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và tuân thủ nghiêm túc quy định, luật pháp quốc tế trong hội nhập. Bối cảnh hiện nay đặt ra yêu cầu vệ sự thay đổi tầm nhìn của những nhà làm chính sách. Một ví dụ cụ thể đó là tầm nhìn thực tế trong giao thương với Trung Quốc. Cần nhìn nhận hiện tượng Trung Quốc như một cơ hội thay vì đe dọa. Cụ thể, nên có chiến lược dài hạn tiếp cận và khai thác thị trường này như một thị trường xuất khẩu tiềm năng nhất cho Việt Nam, chỉ sau Mỹ và EU.
End of content
Không có tin nào tiếp theo