Nghịch lý xuất - nhập than
Theo dự báo, đến năm 2015, Việt Nam sẽ phải NK gần 6 triệu tấn than và sau đó tăng dần lên theo các năm tùy thuộc vào tiến độ sử dụng than, chủ yếu của các nhà máy điện chạy than.
Được “gỡ” vẫn “than” khó
Trước những khó khăn của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), tháng 10-2012, Bộ Tài chính đã điều chỉnh giảm thuế XK than từ mức 20% xuống 10%. Cùng với đó, giá bán than cho điện cũng được phép tăng từ ngày 20-4-2013.
Vừa được giảm thuế vừa được tăng giá bán nhưng trong cuộc họp gần đây nhất của Vinacomin, lãnh đạo Tập đoàn này vẫn “than” khó. Phó Tổng giám đốc Tập đoàn, Nguyễn Văn Biên cho biết, hiện giá than bán cho ngành điện đã bằng với giá thành sản xuất của năm 2011, nhưng lại chỉ bằng 85-87% so với giá thành sản xuất của năm 2013.
Tài chính ngành than đuối sức khi luôn phải tính toán cân bằng trong điều kiện giá bán thấp hơn giá thành. Chỉ tính riêng trong quý I-2013, với việc giá bán than cho điện thấp hơn giá thành tới 30% khiến ngành này “hụt” khoảng 1.500 tỷ đồng. Ngoài ra, mức thuế XK 10% áp dụng với Vinacomin hiện thuộc hàng cao nhất thế giới khiến Tập đoàn gặp khó trong cân đối tài chính.
Theo Bộ Công Thương, XK than gặp khó khăn do giá và lượng than tiêu thụ trên thị trường thế giới giảm. Do cố gắng đàm phán để giữ giá nên lượng than đá XK tháng 4 ước đạt 1 triệu tấn, giảm 40,6% so với tháng 3 và giảm 20,6% so với tháng 4-2012. Tính chung 4 tháng XK than ước đạt 5,2 triệu tấn, tăng 16,4% so với cùng kỳ. Quan trọng hơn hiện nay do tỷ trọng than lộ thiên giảm, điều kiện khai thác hầm lò ngày càng xuống sâu nên giá thành sản xuất than tăng. Vì vậy, giá bán than XK sau khi trừ thuế XK và thuế Giá trị gia tăng chỉ bù đắp… chi phí.
Xem lại hiệu quả sử dụng
Mặc dù vậy, kế hoạch của ngành than hiện nay là cố gắng XK được càng nhiều càng tốt. Năm 2013, Vinacomin đặt mục tiêu XK 16 triệu tấn, tăng 1,7 triệu tấn so với năm 2012 (năm 2012, XK than đạt giá trị khoảng 1,2 tỷ USD, tương đương 14,3 triệu tấn).
Có thể nói, than là ngành có liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia, việc hạn chế XK than để dự trữ là cần thiết. Việc Nhà nước đang áp mức thuế XK 10% thể hiện rõ điều đó. Rõ ràng, việc đặt mục tiêu kinh doanh XK than năm sau cao hơn năm trước của Tập đoàn này là không hợp lý. Nhất là trong tương lai gần, năm 2015, Việt Nam từ nước XK than bắt đầu phải NK than, sau đó tăng dần lên theo các năm tùy thuộc vào tiến độ sử dụng than, chủ yếu của các nhà máy điện chạy than.
Theo lý giải của lãnh đạo Vinacomin, XK than thời gian qua chủ yếu là các chủng loại than không thích hợp với sản xuất trong nước, cũng như nhằm giải quyết cân đối tài chính khi than bán trong nước vẫn đang thấp hơn giá thị trường. Hoặc Việt Nam đang XK loại than tốt mà trong nước chưa có nhu cầu sử dụng.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, giá XK than của Việt Nam ra nước ngoài đang thấp hơn so với các nước, nếu quy đổi ra nhiệt năng thì giá than XK của Việt Nam chỉ bằng 70% giá của Úc. TS. Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc Ban quản lý các dự án than Đồng bằng sông Hồng thuộc Vinacomin cho biết, trong khi các nhà máy nhiệt điện và xi măng trong nước sẽ là những khách hàng chủ yếu và lâu dài của ngành than nhưng Vinacomin lại tập trung XK.
Trong khi đó, gần 100% than XK vừa qua có thể dùng để phát điện và sản xuất xi măng và đều là những loại than Việt Nam sắp phải NK. Đây chính là nghịch lý của ngành than đã diễn ra lâu nay. Bởi trong bối cảnh ngành than lệ thuộc lớn vào XK như hiện nay thì chúng ta lại phải đối mặt với bài toán tìm nguồn NK than.
Nguồn NK hiện nay trông cậy chủ yếu vào thị trường Úc và Indonesia, nhưng việc NK từ các thị trường này không dễ khi Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc, Nhật Bản. Còn nếu NK than từ các thị trường xa như Nga thì chi phí vận chuyển lại rất lớn. “Bài toán NK than đã được giao cho 3 “ông lớn” là Vinacomin, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tập đoàn Điện lực Việt Nam nhưng đến nay chưa có lời giải”, ông Sơn cho biết.
Hiện Việt Nam chưa có chính sách về sử dụng năng lượng nên việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên chưa thật sự tiết kiệm và hiệu quả. Do vậy, nghịch lý xuất - nhập than của Vinacomin đã kéo dài trong nhiều năm nay nhưng vẫn chưa khắc phục, thể hiện sự mâu thuẫn trong chính sách vi mô và vĩ mô, hay nói cách khác việc quản lý khoáng sản than không có định hướng nhất quán.
Để giải quyết nghịch lý này, giải pháp ông Sơn đưa ra là nâng cao hiệu suất sử dụng than của các ngành điện, xi măng cũng như các ngành kinh tế khác. Bởi hiệu quả sử dụng của Việt Nam còn kém, 1 kg than các nước có thể sản xuất ra được 3kWh điện còn ở Việt Nam chỉ được 2kWh điện. Đặc biệt, cần có sự đầu tư vào ngành than bởi các công ty than ở Quảng Ninh (mỏ than của Việt Nam) sắp “đóng cửa”, nên phải đầu tư vào công tác thăm dò than.
Minh Trí
Theo HQO
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Cột tin quảng cáo