Xuất khẩu thủy sản và giấc mơ 16 tỷ USD
'Hồi sinh' sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở vùng đất cỏ bàng / Hà Nội thu hút 3,72 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài
Theo Tổng cục Thủy sản, năm 2020 tổng sản lượng thủy sản đạt 8,4 triệu tấn, tăng 1,8%; kim ngạch xuất khẩu (XK) thủy sản ước đạt 8,4 tỷ USD, giảm 0,8% so với năm 2019.
Ẩn số 2021
Lý giải sự sụt giảm này, đại diện Tổng cục Thủy sản cho biết, bên cạnh tác động của dịch COVID-19 khiến hoạt động XK bị giảm sút, nhu cầu sụt giảm mạnh thì khó khăn từ sự cạnh tranh của các nước như Ấn Độ, Ecuador... đều tăng cường nuôi tôm nguyên liệu để cung ứng ra thị trường thế giới.
Trung Quốc mở rộng diện tích nuôi cá, tự cung ứng nguồn nguyên liệu trong nước, thậm chí phục vụ XK làm tăng khả năng cạnh tranh với cá tra Việt Nam. Đồng thời, một số nước nhập khẩu cũng dựng thêm các rào cản kỹ thuật thương mại đối với thủy sản Việt Nam.
Việt Nam phấn đấu là một trong 3 nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầuthế giới. |
Tuy vậy, ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và XK Thủy sản Việt Nam vẫn đưa ra góc nhìn có phần khá lạc quan. Năm 2021, dù vẫn phải đối mặt với những khó khăn lớn từ dịch bệnh COVID-19, nhưng ngành thủy sản đang có nhiều cơ hội từ các FTA thế hệ mới.
Các FTA này đều đang có tác động tốt đối với XK thủy sản của Việt Nam, góp phần nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm thủy sản trong thời gian tới. Vì vậy, nếu tận dụng tốt các cơ hội từ những FTA thế hệ mới, dự báo XK thủy sản năm 2021 thậm chí có thể tăng 10% và đạt trên 9,4 tỷ USD. Trong đó, XK tôm vẫn có mức tăng trưởng mạnh nhất, tăng 15%, đạt 4,4 tỷ USD; cá tra sẽ hồi phục với mức tăng 5%, đạt khoảng 1,6 tỷ USD; XK các mặt hàng hải sản dự báo sẽ tăng 6%, đạt 3,4 tỷ USD.
Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Fimex VN chỉ rõ những thách thức và cơ hội của một số ngành hàng XK thủy sản chủ lực. Cụ thể, cá tra đang đứng trước khó khăn ngày càng lớn do sản lượng cá tra nuôi từ các nước như Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Trung Quốc ngày càng nhiều.
Trong khi đó, với ngành tôm lại đang đứng trước cơ hội vàng tăng trưởng khi các cường quốc tôm đối thủ đang bị dịch COVID-19 tác động khiến sản lượng tộm nuôi sụt giảm trong lúc các mắt xích trong chuỗi giá trị tôm Việt Nam lại linh hoạt các hình thức hợp tác, từ đó tạo sự động viên không nhỏ để người nuôi tiếp tục, thậm chí phát triển ao nuôi của mình.
Tuy nhiên, ông Lực cũng cho biết ngành tôm cần phải khắc phục những thiếu sót như cần nhiều trang trại nuôi tôm đạt chuẩn nuôi quốc tế mà khách hàng đòi hỏi nhằm đủ điều kiện để tôm Việt lên kệ các hệ thống tiêu thụ cao cấp có giá trị tiêu thụ tốt hơn. Qua đó, nhà chế biến có khả năng chia sẻ với người nuôi thông qua giá mua tôm, cùng nhau nâng tầm tôm Việt...
Quyết thu 16 tỷ USD vào 2030
Kết quả tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020 của Bộ NN&PTNT cho thấy trong giai đoạn 2010-2019 sản lượng thủy sản tăng từ 5,1 triệu tấn lên 8,2 triệu tấn. Kim ngạch XK thủy sản tăng từ 5,0 tỷ USD lên tới 8,6 tỷ USD tương ứng 1,7% tổng giá trị kim ngạch XK cả nước và 20,8% kim ngạch XK ngành nông nghiệp.
Bên cạnh đó, ngành thủy sản đang còn bộc lộ không ít những tồn tại, bất cập, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế về phát triển thủy sản của đất nước. Phát triển thủy sản chưa thực sự bền vững, ổn định và hiệu quả, sức cạnh tranh sản phẩm hàng hóa thủy sản của nước ta trên thị trường khu vực và quốc tế chưa cao, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ...
"Việt Nam là nước sản xuất và XK đứng đầu khu vực và đứng thứ ba thế giới (sau Trung Quốc và Nauy), được cộng đồng thủy sản thế giới công nhận, nhưng các quan hệ sản xuất thì vẫn rất rời rạc, thiếu sự gắn kết tư duy sản xuất hàng hóa lớn giữa những người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến, giữa cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản với cơ quan quản lý và nhà khoa học, đặc biệt thiếu sự gắn kết theo chuỗi giá trị thủy sản trong nước với chuỗi giá trị thủy sản toàn cầu", Bộ NN&PTNT đánh giá.
Trước bối cảnh này, Bộ NN&PTNT vừa gửi Thủ tướng Chính phủ Tờ trình về việc phê duyệt chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu là phát triển thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển bền vững và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; cơ cấu và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, có năng suất, hiệu quả cao; có thương hiệu uy tín, khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế...
Chiến lược đặt ra chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 như: Tổng sản lượng thủy sản sản xuất trong nước đạt 9,8 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng thủy sản 7,0 triệu tấn, sản lượng khai thách thủy sản 2,8 triệu tấn, giá trị kim ngạch XK thủy sản đạt 14 - 16 tỷ USD.
Tầm nhìn đến năm 2045, thủy sản là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững, có trình độ quản lý, khoa học công nghệ tiên tiến, là trung tâm chế biến thủy sản sâu, thuộc nhóm 3 nước sản xuất và XK thủy sản dẫn đầu thế giới.
Để đạt được mục tiêu này Bộ NN&PTNT sẽ phối hợp với Bộ Công Thương triển khai các chính sách, giải pháp thúc đẩy, phát triển, mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại, giải quyết rào cản thương mại cho sản phẩm thủy sản.
Các Hiệp hội nghề nghiệp trong ngành thủy sản phối hợp với Bộ NN&PTNT tham gia xây dựng thương hiệu sản phẩm thủy sản, hoạt động xúc tiến thương mại, ổn định và mở rộng thị trường tiêu thụ.
PGS.TS Phan Thị Vân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, đặt vấn đề: Làm thế nào để ngành thủy sản Việt Nam không phải là công xưởng sản xuất nguyên liệu thô mà thế giới phải biết đến chúng ta là cường quốc chế biến thủy sản, xuất khẩu có giá trị gia tăng cao hơn.
"Chiến lược mới của ngành thủy sản cần phải định rõ sản phẩm mũi nhọn trong giai đoạn tới là gì, tiếp tục là sản phẩm tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá tra nữa hay không?. Đồng thời cần tính tới phương thức sản xuất, canh tác bao nhiêu phần trăm là nuôi hữu cơ",PGS.TS Phan Thị Vân nói.
End of content
Không có tin nào tiếp theo