Lễ hội Minh thề không tham nhũng, chỉ thấy dân thề
Trạm thu phí Long Thành- Dầu Giây: Kiểm tra đột xuất, thông báo rộng rãi trên truyền thông / Băng giá phủ trắng đỉnh Fansipan
Lấy của công làm việc công sẽ được thần linh ủng hộ.
Lễ hội Minh thề có nguồn gốc cách đây gần 500 năm. Lễ hội có ý nghĩa giáo dục nhân cách với những yếu tố tín ngưỡng, lấy của công làm việc công sẽ được thần linh ủng hộ. Nếu có lòng tham lấy của công làm việc tư thì các chư thần sẽ khước từ.
Bô lão trang phục chỉnh tề thay quan thề trước thần linh
Lễ hội mang bản sắc văn hóa của người Hải Phòng, do người dân địa phương sản sinh, tạo dựng, bảo tồn và duy trì. Những lời thề có ý nghĩa sâu sắc đó vẫn phát huy tác dụng trong cuộc sống hôm nay.
Với giá trị đó, vào năm 2017, Lễ hội Minh thề đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Người dân thôn Hòa Liễu (Thuận Thiên, Kiến Thụy) tiếp tục bảo tồn và phát huy giá trị để những nét đẹp của Lễ hội Minh thề được lan tỏa rộng rãi hơn.
Về nguồn gốc của Minh thệ, Đại Việt sử ký toàn thư (NXB Khoa học xã hội, H, 1998) có viết, vào thời Lý, Vua chiêm bao thấy một người xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc ba vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, phải mau đem quân dẹp ngay. Tỉnh dậy, liền sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm.
Đến đấy, Vua xuống chiếu giao cho Hữu tư dựng miếu ở bên hữu thành Đại La (sau chùa Thánh Thọ), lấy ngày 25 tháng ấy đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo trước thần vị, đọc lời thề rằng: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung xin Thần minh giết chết”. Các quan từ Đông đi vào đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm thường lệ.
Đến đời Trần, Đại Việt sử ký toàn thư chép, triều đình tuyên bố các điều khoản lễ Minh thệ theo như lệ cũ của nhà Lý và bắt đầu định việc thực hiện.
Theo đó, hàng năm vào ngày mồng 4 tháng Tư, Tể tướng và trăm quan đến trực ngoài cử hành từ lúc gà gáy, tờ mờ sáng thì tiến vào triều. Vua ngự ở cửa Hữu Lang, điện Đại Minh, trăm quan mặc nhung phục, lạy hai lạy rồi lui ra.
Ai nấy đều xếp thành đội ngũ, nghi trượng theo hầu ra cửa Tây thành, đến đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau lại uống máu ăn thề, Quan Trung thư kiểm chính tuyên đọc lời thề rằng “Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái lời thề này, thần minh giết chết”. Đọc xong, Tể tướng sai đóng cửa điểm danh, người nào vắng mặt phải phạt 5 quan tiền.
Minh thệ đã có từ lâu đời, đến triều Mạc (thế kỷ 16), bà Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn (vợ của Thái tổ Mặc Đăng Dung) đã tiếp thu lễ thề của các đời trước, dựng lên Hội Minh thề, bày cho dân làng Hòa Liễu thực hành.
Minh chứng xác đáng của Hội Minh thề được ghi trong bia tạo chùa Thiên Phúc (Hòa Liễu) năm Quang Bảo thứ 9 (1563) rằng: “Thái hoàng Thái hậu họ Võ, Hoàng thái hậu họ Phan, Khiêm thái vương họ Mạc… Cung tiến ruộng, số ruộng kể trên cả thảy gồm 21 mẫu 1 sào 2 thước cúng vào chùa Thiên Phúc làm vật Tam Bảo. Cho bản xã cày cấy để tiện đèn nhang thờ cúng. Nếu ai chôn cất, phá hoại, thay đổi, rời bia xâm lấn ruộng đất sẽ có chư Phật soi xét, chu di ba đời. Nay nguyện khẩn”.
Theo tục lệ làng Hòa Liễu, tổng Văn hóa, huyện Kiến Thụy, tỉnh Kiến An soạn năm 1923 có ghi vào lệ Miêng thệ (Minh thề): “Ngày 24 tháng Chạp là lệ Miêng thệ tại miếu, trích ở công quỹ 10 đồng giao cho phó lý hiện tại nghi phù tử hương đăng, 1 con lợn nhỏ, 1 con gà nhỏ, 40 phần oản và có văn Miêng thệ theo như tiền cổ, ai làm chủ tế cầm dao vẽ vòng, cắt máu gà rượu thề xong thời uống, đến lý dịch và dân làng, thề không lấy của công làm tư gia”.
Như vậy, Hội Minh thề ở làng Hòa Liễu đã có từ thời Mạc do Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn đề xướng với mục đích để răn dạy người dân phải biết dùng của công vào việc công, việc chung của cộng đồng như tu sửa chùa chiền, hương nhang đền miếu, lập quỹ giúp người nghèo khó, cơ nhỡ và Minh thề đã được nhân dân tuân thủ, thực hiện truyền đời đến trước năm 1945.
Sau đó, do hoàn cảnh chiến tranh, miếu thờ bản cảnh Thành hoàng (miếu Minh Thề) không còn nên Hội Minh thề bị mai một. Sau hơn nửa thế kỷ bị gián đoạn, mãi đến năm 1993, khi cụm di tích đền – chùa Hòa Liễu được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, nhân dân địa phương mới bắt tay vào phục dựng lại lễ hội truyền thống.
Đến năm 2001, 2002, Hội Minh thề chính thức được khôi phục, tổ chức vào dịp lễ hội truyền thống đền chùa Hòa Liễu trong 3 ngày (từ 14 đến 16 tháng Giêng), trên nền cốt của Hội Minh thề xưa.
Thề không tham nhũng vắng hoe, nườm nượp tranh ấn thăng quan
Lễ hội Minh thề, bô lão trong làng khăn đóng áo dài trang nghiêm -giả quan- thề liêm chính với dân, xin nguyện mãi mãi làm con dân, xin tận tụy:
“Nếu lấy của công làm việc công thì được các thần linh ủng hộ. Nhược bằng, có lòng tham, lấy của công làm của tư, nguyện cầu các chư vị thần linh đả tử! Y như lời thề…”, “Người nào tà tâm trộm cắp của nhau, nguyện cầu thần linh đả tử. Y như lời thề…”
“Ai dùng của công xây dựng việc công xin thần linh ủng hộ, ngược lại người lấy của công về làm của tư, xin thần linh đả tử.... làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt”
“Mọi người trong làng từ hương chức đến nhân dân, trên là bô lão, dưới từ 18 tuổi trở lên, ai dùng của công dùng vào việc công xin thần linh ủng hộ, ai lấy của công dùng vào việc tư, cầu thần linh đả tử… làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt”.....
Làng Hòa Liễu nơi tổ chức lễ hội Minh thề an ninh rất tốt.Hòa Liễu cũng là thôn đầu tiên của huyện được phong tặng “Làng văn hóa” với bản hương ước 5 chương 20 điều được soạn trên cơ sở bản hương ước cổ của làng. Hiện tại, trong làng không xảy ra những vụ trọng án, người dân yêu làng xóm, sống đạo đức, đúng pháp luật.
Trong khi đó thì lễ hội đền Trần (Nam Định) được đồn rằng, xin ấn thăng quan ở đây rất hiệu nghiệm, và có người nhờ ấn đền Trần mà thăng chức vùn vụt. Một đồn năm, năm đồn 10 thế là dân, quan tứ phương đổ về đền Trần xin ấn.
Nhiều lễ hội đã biến tướng, reo rắc mê tín dị đoan, như cầu may từ cái lông lợn, từ cuống chiếu để sinh được quý tử, cướp được lộc mới may mắn.End of content
Không có tin nào tiếp theo