Từ phạm nhân lên thứ trưởng- Kỳ III: Những ngày ở tù
Thư tay của Bộ trưởng
Cuộc tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm năm ấy diễn ra khá căng thẳng bởi hai quan điểm trái chiều. Một bên bảo vệ cho ông Nguyễn Đức Phan, nhân vật chính của loạt bài ghi chép này, bên kia yêu cầu xử lí nghiêm. Nhưng chuyện này kể sau. Tôi hỏi ông Nguyễn Đức Phan:
-Tâm trạng của bác khi đó thế nào?
- Thú thật, khi ấy tôi thực sự bị sốc!
- Ông có oán trách ai không? Nhất là những người quản lí ông?
-Khi ấy tôi cũng chẳng kịp nghĩ gì. Nhưng với ai chứ riêng anh Lang thì tôi không dám trách. Bởi tôi biết, anh ấy rất tốt, rất thẳng thắn; tất cả vì việc chung, vì mục đích tốt đẹp chứ anh ấy không thành kiến, thù oán gì với tôi. Khi tôi ở tù, các anh ấy đến thăm, động viên.
Khi tôi ra tù, mặc dù đang trong thời gian thử thách, các anh ấy vẫn tin tưởng bổ nhiệm làm quản lí; được phục hồi đảng viên; rồi được điều động về Bộ. Khi anh Lang Đen làm Cục trưởng Cục Kiến thiết Cơ bản, thì tôi làm Cục phó, giúp việc cho anh ấy. Sau đó anh Lang trở lại Lào Cai làm Giám đốc Apatit (lần hai) thì tôi làm Cục trưởng. Bây giờ, chúng tôi đều sinh hoạt trong câu lạc bộ cán bộ ngành than hưu trí ở Hà Nội.
Ông Nguyễn Châu xác nhận: “Thời ông Phan ngồi tù, tháng nào lãnh đạo công ty cũng vào thăm. Lúc thì tôi, lúc thì anh Lang Đen, rồi anh em trong Công ty; nhất là anh em thợ lò dưới Mông Dương. Họ quyên góp tiêu chuẩn bồi dưỡng độc hại như đường, sữa, cắt cử nhau vào thăm anh ấy.
Khi vụ việc xảy ra, Công ty còn đưa xe vể Bắc Ninh đón cha anh ấy xuống thăm. Trong thời gian anh Phan đi tù, các con được anh gửi về cho ông nội trên Bắc Ninh trông. Chị Nguyệt chuyển từ Yên Viên xuống Uông Bí, sống độc thân trong gian tập thể công ty. Mỗi lần có xe về Hà Nội, Công ty đều tạo điều kiện để chị ấy theo xe về thăm con. Trong Công ty, ai cũng thương, cũng quý anh chị ấy”.
…Ông Nguyễn Đức Phan kể, một hôm ông đang chỉ huy nhóm phạm nhân xây dựng trại thì có vị quản giáo đưa cho ông bức thư, nét chữ còn tươi màu mực. Nhìn chữ ký cuối bức thư, ông biết ngay đó là thư của Bộ trưởng Nguyễn Hữu Mai.
Quản giáo ghé tai ông vẻ bí mật: “Bộ trưởng và một ông da đen như người châu Phi ấy, nhưng nói tiếng miền Nam, xin vào thăm anh. Nhưng có lẽ ban giám thị e ngại điều gì đó, nên thôi. Các ông ấy hỏi thăm tình hình về anh rồi biên lá thư này”.
Ông Phan hẹn với tôi, sau một ngày đến nhà ông, sẽ có tài liệu. Và ông đã dành ra một ngày để lục tìm tài liệu, cung cấp cho tôi. Nhưng rất tiếc, lá thư ấy chưa tìm được.
Ông Phan nói: “Tôi không nhớ nguyên văn, nhưng đại để, qua lãnh đạo trại giam, Bộ trưởng rất vui mừng khi biết tôi cải tạo tốt. Rồi Bộ trưởng động viên tôi với lời lẽ thật thân mật, ân cần. Sau này, tôi ra tù, thấy tôi phấn đấu tốt, anh Mai đưa tôi về Bộ. Anh ấy rất thương tôi. Thời tôi làm ở Bộ, anh ấy còn giới thiệu tôi sang làm Bí thư ở Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô nhưng sự việc không thành.".
Xây nhà giam để ... giam mình
Ông Phan là một trong 12 lưu học sinh được nhà nước ta cử sang Liên Xô học nghề mỏ từ năm 1955. Năm 1961, ông tốt nghiệp bằng đỏ, về làm việc tại Mỏ than Hà Lầm.
Để có được bằng đỏ ở Liên Xô phải có kết quả học tập đặc biệt xuất sắc. Trong năm năm, với mấy chục môn học, điểm tổng kết 10 môn là bốn (thang điểm năm là cao nhất), còn lại là điểm năm mới được cấp bằng đỏ.
Nhà thơ Trần Tâm (Bên trái) |
Năm 1967, ông dẫn đầu đoàn công nhân, cán bộ gồm 104 người sang Liên Xô thực tập sinh xây dựng mỏ bằng công nghệ giếng đứng hai năm, sau đó về phụ trách kỹ thuật công trường xây dựng mỏ Mông Dương, sau này là Xí nghiệp Xây lắp 6, như đã nêu ở phần trên.
Do nhiều năm học tập ở Liên Xô, ông rất giỏi về kỹ thuật xây dựng và giỏi tiếng Nga. Cũng nhờ đó mà khi ở tù, ông không bị quản lí nghiêm ngặt, không phải đi đóng gạch, chăn bò như những phạm nhân khác.
Ông bị giam ở Trại Tạm giam 14, Hà Lầm (Hòn Gai, Quảng Ninh). Thời ấy, trại tạm giam chỉ là khu nhà tạm bợ nên dân Quảng Ninh quen gọi là Lán 14. Nay vẫn gọi thế.
Khi thành án, đáng lẽ phạm nhân Nguyễn Đức Phan sẽ được chấp hành án tại trại giam nào đó. Nhưng, sau phiên tòa phúc thẩm, Chánh án Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, ông Đỗ Hữu Miện, cho phép phạm nhân Nguyễn Đức Phan được thi hành án tại Trại Tạm giam 14.
Sở dĩ có sự thi hành án ngoại lệ này là bởi, Giám thị Trại Tạm giam đã biết tài chuyên môn kỹ thuật của phạm nhân Phan nên đề nghị Chánh án cho phạm nhân Phan được chấp hành án tại Trại Tạm giam 14 để thiết kế, xây dựng lại trại.
Vậy là, những ngày ở tù, phạm nhân Nguyễn Đức Phan được sống và làm việc như một chuyên gia.
Thời ấy, mỗi phòng giam chen chúc hàng chục phạm nhân. Riêng phạm nhân Phan được giam một mình trong căn phòng rộng rãi, khá đầy đủ đồ dùng sinh hoạt và phương tiện làm việc.
Phòng giam ông lúc nào cũng có chè tàu, thuốc lá, đường sữa. Đó là tiêu chuẩn phân phối mua bằng tem phiếu và bồi dưỡng độc hại của công nhân mỏ Mông Dương dành dụm, thường xuyên cắt cử người vào thăm nuôi ông.
Những thứ xa xỉ đó, ông mang cho quản giáo và đồng phạm. Nhiều vị quản giáo thường ghé vào phòng giam ông uống trà, hút thuốc và bàn công việc. Công việc của ông được Giám thị giao là thiết kế, giám sát kỹ thuật, và chỉ huy đội xây dựng trại giam. Tức là, ông vừa thổi còi vừa đá bóng. Thợ mỏ Mông Dương vào thăm ông, thấy việc ông làm trong tù, nói vui rằng, ông Phan xây nhà giam để …giam ông!
Hàng ngày, phạm nhân Phan được tham gia tác nghiệp với lãnh đạo Trại. Trong buổi tác nghiệp, phạm nhân Phan yêu cầu vật tư cần ngần này, nhân công cần ngần này người, v.v, lãnh đạo Trại đáp ứng hết. Lực lượng nhân công cũng là các phạm nhân. Trong số phạm nhân với ông, có tên lưu manh khét tiếng là Tướng SS.
Chắc hẳn, bây giờ nhắc đến Tướng SS, dân vùng mỏ còn nhớ những câu chuyện kinh hoàng về tên lưu manh này. Hắn có biệt tài mở khóa, đột nhập vào bất cứ đâu như ma.
Thời làm mỏ ở Quảng Ninh, người viết bài này cũng được nghe những chuyện thần tình về Tướng SS và được nghe mấy ông viết văn, làm thơ nói rằng, Nhà văn Nguyễn Quang Thân đã lấy nguyên mẫu Tướng SS để viết chuyện dài “Chú bé có tài mở khóa”. Sách do NXB Kim đồng ấn hành năm 1983 và đoạt giải nhất, giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam về sách văn học thiếu nhi năm đó.
Tôi tìm đọc cuốn sách này và quả nhiên thấy một số tình tiết trong truyện giống như lời kể về Tướng SS.
Khi viết bài này, tôi hỏi Nhà văn Nguyễn Quang Thân, hiện ở tại cư xá Thanh Đa, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh; số điện thoại: 0912 899 427, xem khi viết truyện này, ông có gặp Tướng SS ở Quảng Ninh không. Nhà văn cho hay, ông không lấy nguyên mẫu nào cả. Nhưng thời đó, những chuyện về thanh thiếu niên lưu manh, giang hồ khá nhiều.
Lúc chưa vào tù, ông Phan cũng nghe những câu chuyện thần tình về Tướng SS và cứ ngỡ rằng hắn dữ tợn lắm. Nhưng khi chạm trán với Tướng SS, mới hay hắn nhỏ bé và không có nét dị thường như những lời đồn đại. Ông mời hắn thuốc lá, hắn tưởng ông là cán bộ trại giam, khúm núm cúi mặt, lí nhí: “Em cảm ơn cán bộ”.
Người viết bài này từng cùng Nhà thơ Trần Tâm, hiện trú tại Hòn Một, phường Cẩm Bình, Thị xã Cẩm Phả, Quảng Ninh, truy tìm tung tích Tướng SS với hi vọng tìm hiểu giai thoại và sự thật về nhân vật lừng danh ở vùng mỏ này. Nhưng hắn đã qua đời.
Ngôi nhà của hắn không còn nữa. Nơi đây giờ là dãy phố sầm uất, với những dãy nhà cao tầng. Hỏi đến Tướng SS, mọi người trong phố đều rằng, họ mới chuyên đến đây, chỉ nghe kể về tên lưu manh có tài mở khóa chứ không biết mặt…
Dịch tài liệu tiếng Nga không công
…Một hôm, ông Phan đang chỉ huy nhóm phạm nhân xây dựng trại thì Giám thị cho gọi lên gặp. Lâu nay, lãnh đạo và quản giáo trại giam vẫn coi phạm nhân Phan như cán bộ của Trại vậy.
Giám thị thân mật mời phạm nhân Phan uống nước, rồi mở cặp lấy ra tờ công văn của Công ty Xây dựng Than- Điện, gửi Trại Tạm giam đề nghị Trại cho phép phạm nhân Nguyễn Đức Phan dịch tài liệu cho Bộ.
Kỳ VI -Vì sao ông Phan bị ngồi tù? Cuộc tranh tụng tại phiên tại tòa phúc thẩm xét xử ông Phan thế nào? Ông Phan có nhận tội không? Mời bạn đọc xem tiếp |
Vậy là, ở trong tù, ngoài thiết kế, chỉ đạo thi công xây dựng trại giam, phạm nhân Nguyễn Đức Phan còn có thêm nhiệm vụ dịch tập tài liệu bằng tiếng Nga sang tiếng Việt. Tên đầy đủ của tập tài liệu này là “Báo cáo cơ sở tổng sơ đồ phát triển ngành than Việt Nam lên 40 triệu tấn/năm”, do các chuyên gia Liên Xô lập.
Sau nhiều năm phấn đấu, với rất nhiều biện pháp để tăng sản lượng như đổi mới công nghệ, đổi mới trong quản lí, điều hành và tổ chức sản xuất, phát triển ngồn nhân lực v.v, đến năm 2007, Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam (TKV) mới đạt sản lượng trên 43,2 triệu tấn, năm 2008 đạt 36 triệu tấn.
Đây là sự bứt phá phi thường! Vậy mà khi đó, người ta đã lập quy hoạch, trong 10 năm (1975-1985), nước ta phải sản xuất được bình quân mỗi năm, mỗi người một tấn than! (khi đó nước ta có 40 triệu dân). Nghe viển vông quá chăng? Nhưng chuyện này kể sau.
Lại nói đến việc ông Phan dịch tài liệu trong tù, tôi hỏi:
- Xin lỗi bác. Khi đó, tiếng Nga là ngoại ngữ được đề cao nhất ở nước ta. Rất nhiều người thông thạo tiếng Nga, sao Công ty Than -Điện không nhờ dịch, lại nhờ bác cho phiền toái?
- Đúng là khi đó cũng nhiều người giỏi tiếng Nga, nhưng người biết tiếng Nga am hiểu về ngành mỏ không nhiều đâu, nhất là các thuật ngữ chuyên ngành. Với lại, tập tài liệu này dày lắm, năm tập cơ mà. Công ty giao cho mỗi người dịch một tập. Tôi được giao dịch tập về tổng quan, khái quát luận.
-Bác bận dịch tài liệu, vậy công việc chỉ đạo, giám sát xây dựng ở Trại, ai đảm nhận?
- Vẫn là tôi. Dịch tài liệu tranh thủ các buổi tối và chủ nhật.
-Thời ấy, dịch tài liệu quan trọng như thế có được nhiều thù lao không?
Ông Phan cười khơ khơ:
-Đang ở tù vẫn được lãnh đạo công ty tín nhiệm, tin tưởng giao nhiệm vụ là phấn khởi rồi, còn đòi hỏi gì!
(Còn nữa)
C.Th
End of content
Không có tin nào tiếp theo