Vai trò của nghiên cứu cơ bản lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn trong kỷ nguyên số
Gỡ rào cản trong nghiên cứu khoa học: Chấp nhận rủi ro và khoán chi / VCCI: Cần phản ánh đúng bản chất thương mại hoá kết quả nghiên cứu khoa học

PGS.TS Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, vì vậy, không chỉ là dựng xây tri thức mà còn là nền tảng để củng cố hệ giá trị, để định hình tương lai, để giữ gìn bản sắc và chủ động thích ứng với thế giới đang biến đổi.
"Hệ điều hành" cho chính sách và chiến lược quốc gia

PGS.TS Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED).
Theo PGS.TS Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED), các bằng chứng thực nghiệm và phân tích định tính - định lượng từ nghiên cứu cơ bản là đầu vào quan trọng giúp Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách về văn hóa, giáo dục, an sinh xã hội và đổi mới thể chế.
Đồng thời, nghiên cứu cơ bản cung cấp nền tảng lý luận cho chiến lược phát triển quốc gia trong bối cảnh thế giới đầy biến động,.
Lĩnh vực này còn góp phần định hướng dư luận, nuôi dưỡng niềm tin và củng cố sức mạnh đoàn kết cộng đồng - những yếu tố sống còn cho sự ổn định chính trị.
Sứ mệnh lịch sử mới cho khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam

TS. Đào Ngọc Báu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đang đặt ra một sứ mệnh lịch sử mới cho khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam, đó là bản địa hóa tri thức và hình thành "Học thuyết Việt Nam".
Bản địa hóa tri thức không phải là sự “Việt hóa” giản đơn các khái niệm hay việc minh họa lý thuyết bằng các ví dụ trong nước, mà là một quá trình chuyển hóa sáng tạo, trong đó các lý thuyết và mô hình ngoại sinh được kiểm chứng, điều chỉnh và tái cấu trúc trên nền tảng bối cảnh lịch sử, văn hóa, chính trị - xã hội cụ thể của Việt Nam. Thông qua quá trình này, tri thức ngoại sinh không còn tồn tại như những “khuôn mẫu áp đặt”, mà trở thành công cụ phân tích thực sự hữu hiệu đối với các vấn đề bản địa, đồng thời cũng được làm giàu thêm về nội hàm lý luận.
Trên cơ sở bản địa hóa tri thức một cách hệ thống và có chiều sâu, sứ mệnh cao nhất của khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam là hình thành học thuyết Việt Nam. Học thuyết Việt Nam không chỉ là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hay tập hợp các kết quả nghiên cứu đơn lẻ, mà phải là một hệ thống lý luận khoa học tương đối hoàn chỉnh, bao gồm hệ giả định lý thuyết, hệ phạm trù - khái niệm, phương pháp tiếp cận và các luận đề cốt lõi có khả năng khái quát hóa cao. Quan trọng hơn, học thuyết đó không chỉ có giá trị trong phạm vi Việt Nam, mà còn có giá trị tham khảo đối với cộng đồng học thuật quốc tế.
Thách thức và định hướng đầu tư cho tương lai
Mặc dù số lượng công bố quốc tế (ISI/Scopus) của Việt Nam đã tăng lên, với 441 bài báo quốc tế uy tín được tài trợ bởi Quỹ NAFOSTED trong giai đoạn 2011-2025, nhưng chất lượng nghiên cứu vẫn chưa đồng đều và chưa gắn kết chặt chẽ với thực tiễn quản lý nhà nước. Cơ chế đánh giá hiện tại còn nặng về định lượng ngắn hạn, chưa khuyến khích các nghiên cứu lý luận dài hạn.
Hiện nay, nhiều nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn vẫn mang tính phân tán, manh mún theo cơ sở đào tạo hoặc nhóm cá nhân, chưa hình thành được các “đầu tàu học thuật” đủ sức dẫn dắt những chương trình lý luận lớn, có ảnh hưởng lâu dài trong nước và quốc tế.
TS. Đào Ngọc Báu Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, để nâng tầm vị thế của nghiên cứu cơ bản trong kỷ nguyên mới, cần thực hiện các giải pháp chiến lược.
Thứ nhất, cần xây dựng và ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển lý luận khoa học xã hội và nhân văn gắn với Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia.
Thứ hai, cần thiết lập Quỹ nghiên cứu lý luận nền tảng cấp quốc gia, hoạt động theo cơ chế tài trợ dài hạn (5-10 năm), độc lập tương đối với cơ chế đề tài hành chính thông thường.
Thứ ba, cần đổi mới căn bản cơ chế đánh giá khoa học, chuyển trọng tâm từ “định lượng thuần túy” sang “chất lượng, chiều sâu và giá trị học thuật dài hạn”.
Ngoài ra, cần thúc đẩy đào tạo liên ngành, kết nối khoa học xã hội và nhân văn với các lĩnh vực khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, công nghệ số… Đồng thời đầu tư trọng điểm, thiết lập các chương trình hợp tác quốc tế, hình thành các trung tâm nghiên cứu lý luận tầm quốc gia…
Đầu tư cho nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội và nhân văn chính là đầu tư cho chiều sâu trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc. Như PGS.TS Đoàn Minh Huấn đã nhấn mạnh: "Nghiên cứu cơ bản không chỉ là nền móng của tri thức mà còn là sức mạnh mềm của quốc gia". Chỉ khi làm chủ được năng lực sáng tạo lý luận và hình thành được những học thuyết mang bản sắc riêng, Việt Nam mới có thể chủ động định hình con đường phát triển và khẳng định vị thế trong dòng chảy tri thức nhân loại.
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Xem nhiều nhất
Ba doanh nghiệp VST được vinh danh tại TECHFEST 2025
Khởi nghiệp Việt Nam tăng tốc: Kỳ vọng thêm kỳ lân trong lĩnh vực AI và bán dẫn
Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo để phát triển bền vững
Growlab đoạt Quán quân Cuộc thi Tìm kiếm tài năng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia 2025
Vai trò của nghiên cứu cơ bản lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn trong kỷ nguyên số
Nghị định 264 - 'Chìa khoá' giúp Việt Nam hiện thực hoá mục tiêu 1 triệu startup




