Cuộc tiễu phỉ ở Đồng Văn và góc nhìn khác về Vua Mèo Vương Chí Sình
Lạ đời vị mỹ nhân quốc sắc cả đời... "không tắm" lại được hoàng đế trọng vọng, cung đình kính nể / Những bộ tộc kì lạ khơi gợi trí tò mò của bạn
Độc giả ở cả hai miền Nam Bắc hẳn đã từng rất say mê những cuốn tiểu thuyết giang hồ miền biên ải, với bối cảnh trải dài từ Đông Bắc sang Tây Bắc, từ miền Quang Ninh, Cao Bằng vắt qua Hà Giang sang tận Lào Cai. Con người và vùng đất có thể khác nhau, song hầu hết những câu chuyện này đều dựa trên các biến cố lịch sử chủ yếu diễn ra trong giai đoạn sau năm 1945 đến đầu thập niên 1960, gọi nôm na là loạn phỉ.
Ở miền Nam, đáng chú ý nhất là các tác phẩm mang màu sắc võ hiệp kỳ tình hiện đại của nhà văn Hoàng Ly, nhất các cuốn “Lửa hận rừng xanh”, “Một thời ngang dọc” và “Thập Vạn Đại Sơn Vương”. Địa danh và sự kiện trong những cuốn tiểu thuyết đặc sắc này đều “mượn” bối cảnh và con người vùng Đông Bắc, nhất là Hà Giang. Tuy nhiên, câu chuyện là hoàn toàn hư cấu, bởi sự kiện được mô tả diễn ra vào cuối thập niên 1950, trong khi nhà văn Hoàng Ly (sinh năm 1915, người Hà Nội) đã di cư vào Nam từ 1954.
Ở miền Bắc, nổi bật là tiểu thuyết “Đồng bạc trắng xòe” (1979) của Ma Văn Kháng và thêm hai cuốn muộn hơn là tiểu thuyết “Vùng biên ải” (1983) và “Một mình một ngựa” (2007), cũng kể chuyện đấu tranh chống loạn phỉ nhưng dời bối cảnh về miệt Mường Khương, Lào Cai. Bóng dáng loạn phỉ còn được khắc họa bởi nhà văn Xuân Sách bằng cuốn truyện thiếu nhi “Phía núi bên kia” với nhân vật “Lồ Đại quan bị trói chôn gốc chuối” ngoài cửa ngõ Mường Khương… Tất cả đều bàng bạc sương rừng quan ải.
Với Hà Giang, sát sườn nhất, chân thực nhất phải kể đến cuốn truyện ký “Cuộc chiến đấu bảo vệ Đồng Văn”, sau đó được tiểu thuyết hóa thành “Bên kia cổng trời” (1977) của cùng tác giả Ngôn Vĩnh - nhà văn, nguyên phóng viên, Tổng Biên tập Báo Công an Nhân dân. Nhân vật trong tiểu thuyết đương nhiên có sự pha trộn, song bóng dáng con người, vùng đất và thời đại vẫn có thể hình dung rất rõ ràng, thực tế.
“Vua Mèo” đa tính cách với 5 bà vợ và lắm chuyện éo le đương nhiên lấy nguyên mẫu từ Vương Chí Sình. “Vai” nam chính Mã Chính Tâm, nhiệt huyết và mã thượng, hai tay hai súng Poọc hoọc cưỡi ngựa như bay không ai khác chính là ông Mã Chính Lâm, con trai Nho tướng Mã Học Văn ở ngoài đời, Huyện đội trưởng Đồng Văn. Ông là người hùng một mình một ngựa vào tận hang núi tay không quật ngã trùm phỉ. Ông Mã Chính Lâm, sau này là Đại tá, Tỉnh đội phó tỉnh Hà Tuyên.
Theo chân những huyền thoại trên cao nguyên đá, chúng tôi đã nhiều lần rong ruổi các miền ở Hà Giang, tìm gặp lại một số nhân chứng một thời, thu thập, gạn lọc các giai thoại, huyền thoại, đối chiếu các tư liệu để hình dung rõ nét nhất về bức tranh xác thực của một giai đoạn nhiều biến động.
Trong chuyến công tác về Đồng Văn, chúng tôi đã được ông Mã Phứ cung cấp nhiều tư liệu và giới thiệu, hướng dẫn đi gặp khá nhiều nhân vật từng tham gia trừ phỉ giai đoạn 1959 - 1960. Ông Phứ ở Phó Bảng, sinh năm 1947, là con trai ông Mã Chính Minh, gọi “Nho tướng” Mã Học Văn bằng ông nội.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Vương Chí Sình rời Phó Bảng dọn về sống trong dinh Sà Phìn. Vua Mèo sau đó đã trở thành Chủ tịch huyện Đồng Văn (gồm 4 huyện Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn ngày nay). Trên danh nghĩa, gia đình họ Vương vẫn nắm quyền lãnh đạo toàn miền Đồng Văn, nhưng quyền lực thực tế thì đã bị thu hẹp đi nhiều.
Yên bình một thời gian, sau năm 1949, Cao nguyên đá lại nổi cơn ba đào. Bên kia biên giới, Giải phóng quân Trung Quốc đã đánh bại tập đoàn quân phiệt Tưởng Giới Thạch. Một bộ phận quân Quốc dân đảng theo Tưởng bỏ chạy ra đảo Đài Loan. Vùng Vân Nam, Quý Châu, nhiều tướng lĩnh quân phiệt Quốc dân đảng không theo Tưởng (từ năm 1946), cũng không quy thuận Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dựa lưng vào núi rừng hiểm trở của các miền biên giới giáp với Việt Nam, Lào, Myanmar thu thập tàn quân đánh trả các đợt truy quét của Giải phóng quân Trung Quốc, mong tìm đất cát cứ giang sơn nhất khoảnh tiếp tục chống Cộng.
Hầu hết các đơn vị quân đội lớn của Tưởng thuộc Quân đoàn Vân Nam, gồm các sư đoàn 93, 28 và 26 do các tướng Lý Mật, Lý Văn Huấn, Mã Thắng Quốc, Lý Thời Văn chỉ huy đều chọn cát cứ làm giải pháp. Tàn quân thu thập đông tới gần 12.000 người.
Sau nhiều chiến dịch truy quét quy mô, đến cuối năm 1950, đám quân cát cứ này đều bị quân Giải phóng Trung Quốc đánh bại, đa phần bị đẩy bật sang bên kia sông Salwen, trốn vào vùng rừng rậm núi cao của vùng Mong Hxat của Burma (nay là Myanmar). Các toán bại binh mất chủ nhỏ lẻ tản ra khắp nơi. Một số lùi dạt sang phía Đông Nam, lấy vùng Thập Vạn Đại Sơn thuộc các châu Tổng Cản, Phú Lình tỉnh Quảng Tây, và Vân Nam, dựa thế núi non trùng trùng trùng điệp điệp làm sào huyệt dung thân. Từ nơi đứng chân có nhiều kẻ mưu đồ tiến chiếm Cao nguyên đá Đồng Văn lập căn cứ.
Cho đến trước kỳ bầu cử HĐND năm 1959, tuy các địa phương ở Đồng Văn đều đã có chính quyền dân cử, nhưng các vị trí lãnh đạo chủ chốt vẫn nằm trong tay những người xuất thân quý tộc lớp trên. Quyền lực hành chính vẫn gắn chặt với quyền lợi của dòng tộc, gia tộc. Lợi dụng tình hình này, các nhóm tàn quân Tưởng đã đẩy mạnh tuyên truyền, móc nối, câu kết... với các thành phần quý tộc cũ của Đồng Văn, kích động nổi loạn, chiếm đất nhằm tiến tới thành lập cái gọi là "Vương quốc Mèo độc lập”. Chúng phao lên, "Vua Mèo" Mèo Vạc Dương Trung Nhân được Mỹ và quốc tế giúp sức sắp trở về cai trị Đồng Văn. Những toán tàn quân Quốc dân đảng bên kia biên giới được tô vẽ thành "các đạo quân quốc tế" về nước giúp "Vua Mèo" khôi phục lãnh thổ thành lập vương quốc.
Không ít người Mông đã bị phân tâm, mê hoặc bởi luận điệu này, tham gia vào các đội quân mới thành lập vội vã để "đón tiếp vua Mèo". Do tập quán, bất kỳ một thanh niên trai tráng người Mông nào cũng sở hữu ít nhất 1 khẩu súng kíp. Tuy thô sơ, nhưng khi tập hợp lại, những kẻ cầm đầu bạo loạn cũng đã có trong tay nhiều toán quân đông đảo. Đầu năm 1959, chúng tổ chức đốt phá trụ sở Ủy ban hành chính xã Phố Cáo, bắt cán bộ và đốt phá nhà cửa của nhân dân ở xã Bạch Đích, cướp chính quyền tại xã Thắng Mố... khởi đầu cho hàng loạt cuộc bạo loạn ở nhiều địa phương khác.
Đứng trước tình hình dầu sôi lửa bỏng ấy, thái độ của lãnh đạo cao nhất miền Đồng Văn là Vương Chí Sình lại rất nước đôi. Khư khư bám lấy quyền lợi thống trị của gia tộc làm mục đích tối thượng, Vương cho rằng, dù Cách mạng hay phỉ Thập Vạn Đại Sơn nắm được Đồng Văn thì cũng cần đến vai trò của ông ta trong việc tập hợp và cai trị quần chúng.
Tình hình càng lắm tao loạn, vai trò của họ Vương càng có ý nghĩa. Do đó, tháng 5-1959, Vương Chí Sình đã về Sà Phìn họp bàn với một loạt thuộc hạ chủ chốt gồm Vàng Chúng Dình, Giàng Vạn Sùng, Vàng Chỉn Cáo, Lý Nhè Lùng, Giàng San Sấn, Vàng Vạn Ly... đồng ý cho những kẻ cầm đầu này tụ họp binh mã, mua sắm vũ khí, chiếm các vị trí quan trọng, sẵn sàng chờ thời để nổi dậy thâu tóm chính quyền, không có ý định ngăn phỉ khi chúng vừa dấy loạn.
Lực lượng quân sự Mông này đặt dưới quyền tổng chỉ huy của Vàng Chúng Dình. Mã Học Văn và Giàng Vạn Sùng được quyền thay mặt Vương Chí Sình lãnh đạo khi tình hình có biến. Còn bản thân, Vương Chí Sình đưa hết gia đình về Hà Nội sống, giữ vai trò một đại biểu Quốc Hội nhằm tỏ ra vô can không dính dáng gì đến chuyện thành hay bại trong cuộc bạo loạn. Cũng có ý kiến cho rằng, thực chất Vương Chí Sình và gia đình đã cố tình bị giữ lại Hà Nội, phòng ý đồ quay lại cát cứ nắm trọn quyền lực ở Đồng Văn đòi quyền tự trị.
Trong số những tay chân họp bàn tại Sà Phìn, Vương Chí Sình đã quên không chú ý đến vai trò mấu chốt và khuynh đảo của Vàng Chúng Dình. Tên này người Mông Trung Quốc, có quan hệ thông gia với Vàng Vạn Ly, Giàng Vạn Sùng ở Đồng Văn. Ngoài mặt, hắn tỏ ra quy phục họ Vương. Thực chất hắn là cựu sĩ quan Quốc dân đảng, từng tham gia khởi loạn Quảng Tây chống Tưởng từ năm 1936. Vàng Chúng Dính đóng vai trò chính trong việc tìm đường để đưa các nhóm tàn quân Tưởng từ bên kia biên giới về Đồng Văn chiếm đất hoạt động lâu dài. Quy phục Vương Chí Sình chỉ là cách qua mặt, để âm mưu thâm nhập nội địa Việt Nam của tàn quân Tưởng không bị cựu Vua Mèo phát giác và ngăn chặn ngay từ đầu.
Vương Chí Sình vừa về Hà Nội, Vàng Chúng Dình đã nhanh chóng đẩy mạnh các hoạt động vũ trang vượt ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của cựu Vua Mèo. Các đầu lĩnh người Mông Đồng Văn khác, vì quyền lợi thiển cận, cũng bỏ ngoài tai những dự định mà Vương Chí Sình chỉ đạo, răm rắp nghe theo sự chỉ huy của tên đặc vụ Tưởng. Ở quá xa, Vương Chí Sình đã không nắm được đầy đủ diễn tiến để có thể điều chỉnh các nước cờ quyền lực.
Ngày 30/11/1959, một trung đội phỉ 40 tên do Vàng Chỉn Cáo chỉ huy đã khóa chặt cổng trời Cắn Tỷ, cắt đứt đường giao thông từ Hà Giang lên Đồng Văn. Một ngày sau, bạo loạn "phỉ Đồng Văn" chính thức nổ ra. Hôm sau nữa, toán phỉ chặn cổng trời đã tấn công bắt giữ hai đoàn ngựa thồ hàng của tỉnh lên Đồng Văn, đuổi cán bộ, nhân viên tải hàng quay trở lại miền hạ Hà Giang. Một tuần sau đó, hàng loạt địa bàn các xã trên toàn Đồng Văn bị các toán phỉ cướp phá, lùng bắt cán bộ, đốt nhà cướp của.
Nhằm tránh nổ ra xung đột vũ trang, ngày 9/12/1959, Khu Việt Bắc và Tỉnh ủy Hà Giang đã cử ba cha con Vương Chí Sình, Vương Quỳnh Sơn, Vương Quỳnh Anh dẫn đầu đoàn cán bộ Mặt trận Tổ quốc lên Đồng Văn thuyết phục các đầu lĩnh Mông buông vũ khí, giải tán các toán vũ trang, không tiếp tay dẫn đường cho phỉ Quảng Tây. Lá mặt lá trái, Vương Chí Sình lại bí mật chỉ đạo tay chân án binh bất động, không ngăn cản phỉ, trong khi lại yêu cầu bọn phỉ: “Đánh thật mạnh để mau chóng giành thắng lợi" (Dẫn theo Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn 1944-1975, tập I, trang 117).
Hậu quả là cuộc thương thuyết thất bại hoàn toàn. Từ ngày 12 đến ngày 28/12/1959, hàng loạt cuộc tấn công của phỉ nhằm vào bộ máy chính quyền đã nổ ra và bị trừng trị đích đáng. Vàng Chúng Dình dẫn 200 quân đánh vào thị trấn Đồng Văn. Vàng Dúng Mỷ tàn phá Mèo Vạc, cướp cửa hàng mậu dịch. Ngày 20/12, đầu lĩnh Phàn Chỉn Sài (người Dao) đưa một toán phỉ đánh vào Na Khê, sau đó tiến vào Bạch Đích, bắt cán bộ huyện treo lên cây làm bia cho lính tập bắn. Ngày 28/12, Giàng Quáng Ly chiếm xã Yên Minh, Vàng Chỉn Cáo, Phàn Dền (người Dao) chiếm Cắn Tỷ và Đông Hà, lùa dân đi làm bia đỡ đạn. Dân phản đối bị chúng giết, quăng xác xuống sông.
Trước tình hình đó, Trung ương và tỉnh Hà Giang đã phải điều động một số đơn vị bộ đội, công an, công an vũ trang phối hợp với dân quân tự vệ địa phương lập nên Đoàn công tác tiễu phỉ.
Những hành động vượt tầm kiểm soát đã phơi bày tội ác và mưu đồ cát cứ Đồng Văn của đám phản loạn, bị nhân dân các dân tộc miền Đồng Văn nhận rõ chân tướng. Sự phân hóa đã nổ ra sâu sắc. Ngay trong gia đình họ Vương, trong khi Vương Chí Sình giữ thái độ lừng khừng “ngư ông đắc lợi” thì hai con trai Vương Quỳnh Sơn, Vương Quỳnh Anh lại rất tích cực đóng góp vào việc vận động tuyên truyền chống âm mưu chia rẽ, cát cứ và đóng góp nhiều cho công cuộc tiễu phỉ.
Nho tướng Mã Học Văn, người được Vương Chí Sình bí mật giao trách nhiệm thay mình chỉ đạo tình hình Đồng Văn cũng đã ly khai ý nguyện của chủ cũ để phục vụ lợi ích chung, sát cánh và giúp sức nhiều cho những cán bộ do cấp trên cử về trong công tác vận động quần chúng và tiễu phỉ. Họ Mã đã một mình tay không vào tận sào huyệt của Vàng Vạn Ly thuyết phục tay này đầu hàng. Vàng Vạn Ly không nghe. Mã Học Văn đã đích thân lập kế hoạch giúp đoàn công tác tiễu phỉ bắt sống tên này bằng trò chơi đặc vụ.
Hai con trai của cụ Mã Học Văn là Mã Chính Minh và Mã Chính Lâm cũng là những người có công lớn trong cuộc tiễu phỉ. Năm 1957, khi phong trào thổ phỉ mới manh nha, Mã Chính Minh cũng bị rủ rê đã tham gia từ đầu. Sau đó, anh nhanh chóng nhận mưu đồ đen tối, bị giật dây từ Trung Quốc nên đã ly khai, đưa cán bộ, dân quân luồn rừng, bạt núi lần theo dấu phỉ. Người em trai Mã Chính Lâm thì ngay từ đầu đã tỏ ra là một tay hảo hán, chống phỉ quyết liệt, chỉ huy bộ đội, dân quân địa phương đánh nhau với phỉ nhiều trận ác liệt.
Sau nhiều đợt truy quét, lực lượng vũ trang đã đẩy lùi các toán quân phỉ ra khỏi các khu dân cư, nhất là khu vực Đồng Văn, Phó Bảng, Phố Là, Sủng Là, cổng trời Cắn Tỷ... Những tên bị bắt, ta đưa về Yên Minh giáo dục, sau đó cho về quê quán, chỉ giữ lại bọn đầu sỏ, ngoan cố để tiếp tục đấu tranh.
Hàng loạt huyền thoại mới lại xuất hiện trên Cao nguyên đá. Xã đội trưởng Vần Chải Sùng Dúng Lù đã chỉ huy dân quân, du kích đẩy lui hàng chục đợt tấn công của phỉ, bảo vệ dân (Sùng Dúng Lù được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang năm 1967). Vào cuối chiến dịch tiễu phỉ, chính ông là người đã vào tận hang ổ bắt sống Vàng Vạn Ly, sau đó tay không một mình đi khắp vùng Vận Chải thuyết phục được hàng chục kẻ lầm đường buông súng. Hoàng Văn Bách, Chủ tịch thị trấn Đồng Văn, dù nắm trong tay chỉ một trung đội dân quân tự vệ cũng ngoan cường vật lộn suốt 12 giờ đánh bật nhiều đợt tấn công vào thị trấn của 200 tay súng do cựu sĩ quan Quốc dân đảng Vàng Chúng Dình chỉ huy.
Sau thất bại này, tên cầm đầu bạo loạn Vàng Chúng Dình đã cay cú điều thêm 300 quân tấn công Đồng Văn lần nữa, hạ quyết tâm không chiếm được cũng phải phá sạch, đốt sạch. Nhưng, với sự tăng cường của một đại đội vũ trang hỗn hợp gồm cả công an và công an vũ trang, Đồng Văn vẫn đứng vững, cuối cùng đuổi được Vàng Chúng Dình và các tay súng chạy dài về khu vực Ma Lé, Mã Sồ sát biên giới.
Không để cho chúng kịp trở tay, các lực lượng vũ trang lại tiếp tục truy kích. Chiến dịch mở ngày 29/1/1960 (29 tết) đến hết ngày 31/1/1960 (mùng 1 tết) thì thắng lợi hoàn toàn. Gần 400 tên phỉ bị đánh tan tác, phần lớn đều phải buông súng đầu hàng. Vàng Chúng Dình phải tháo chạy về vùng Thập Vạn Đại Sơn, khu vực thuộc Vân Nam (Trung Quốc) để lẩn trốn.
Chưa bắt hoặc diệt được tên đầu sỏ đến từ bên kia biên giới, mầm bạo loạn sẽ vẫn còn chưa dứt, Ban chỉ huy chiến dịch quyết tâm lập kế điệu hổ ly sơn. Từ chỗ phao tin "Vua Mèo sắp trở lại, Mỹ và quốc tế can thiệp giúp Đồng Văn thành lập Vương quốc Mèo" nhằm lừa bịp nhân dân Đồng Văn, sau nhiều cuộc tấn công, quấy rối nhưng đều thảm bại, Vàng Chúng Dình bị cô lập, mù thông tin, đâm ra ảo tưởng, bị lừa bởi luận điệu lừa bịp do chính mình tung ra.
Khi Vàng Chúng Dình đã quá mệt mỏi và tuyệt vọng thì có hai vị cứu tinh là Vừ Sảo Cờ và Mùa Chứ Dính xuất hiện. Cả hai người này đều có quan hệ họ tộc hoặc thông gia với gia đình Vàng Chúng Dình. Họ cho biết, một phái viên cao cấp do chính quyền Ngô Đình Diệm cử ra đã bí mật có mặt tại Đồng Văn, sẵn sàng gặp Vàng Chúng Dình để mưu bàn đại sự hoặc đón tên này vào Sài Gòn, từ đó đi Đài Loan.
Sau nhiều lần kiểm tra, Vàng tin răm rắp, đồng ý rời đất Tàu theo "hai người anh em cứu tinh" về rúc trong hang đá biệt lập ở núi Tia Cẩu Chùa (góc Vách Đá), xã Phố Là. Đưa đường cho gã là Thào Giống Lùng, người trong xã. Tại hang này, gã đã được gặp "đặc phái viên" Vũ Âu Lạc và một kẻ đưa đường khác, từng tham gia quân phỉ từ thời manh nha là... Mã Chính Minh, hàng ngày cùng Vàng bàn bạc "quốc sự”.
Hang đá treo lưng chừng núi dựng đứng, muốn trèo lên phải dùng dây thừng, sau đó gọi cho người trong hang bắc thang xuống. Hang cách biên giới, khu Tổng Cản, Trung Quốc không xa, khoảng 4km.
Mỗi ngày ba bữa, cô Vừ Thị Mỹ, vợ của Thào Giống Lùng đều từ Phố Là lên núi, đu dây lên hang cung cấp thức ăn, củi sưởi cho Vàng. Mỗi lần đều có một con gà, một lạng hạt tiêu và một ít thuốc phiện. Khi có ông “đặc phái viên” và hai người nữa cùng lên hang thì số gà mỗi bữa tăng lên 3 con.
Tên trùm phỉ Vàng Dúng Lình không hay biết rằng tất cả chỉ là một cái bẫy. Ông Vũ Âu Lạc là một cán bộ an ninh đóng giả vai “đặc phái viên”. Những người khác liên quan cũng đều là thành viên đoàn tiễu phỉ.
Một tuần sau khi tay "đặc phái viên” xuất hiện, Vàng đồng ý rời hang. Cả nhóm vừa đi được một đoạn thì bất ngờ có thêm một người tướng to cao, chắc khỏe xuất hiện. Vừa kịp nhận ra người đó là Mã Chính Lâm, Huyện đội trưởng Đồng Văn mà mình đã cố công giết cho bằng được trong hai đợt tấn công vào thị trấn, Vàng đã bị Mã quật ngã và bắt sống.
Rắn bị đánh giập đầu, loạn thổ phỉ lắng dần, đến năm 1962 thì tan rã hoàn toàn. Phiên tòa xét xử những tên trùm thổ phỉ diễn ra vào năm 1963. Người ngồi ghế chánh án là ông Vừ Mí Kẻ, người Mã Phài từng được Vương Chí Sình tin cậy giao áp tải vàng bạc về Hà Nội ủng hộ “Tuần lễ vàng” năm 1945. Với phiên tòa này, quyền lực phong kiến cát cứ đã thực sự chấm dứt hoàn toàn trên Cao nguyên đá, trả lại cho Đồng Văn sự thanh bình để bắt đầu vào mùa xây dựng.
Lưu ý bạn đọc, từ phỉ hay thổ phỉ chỉ dùng để chỉ đám thảo khấu Trung Quốc vô chính phủ xâm nhập, giành đất, giành ảnh hưởng quyền lực vùng biên giới. Xưa, chúng là các nhóm khởi loạn, chống triều đình như đám Cờ Đen, Cờ Vàng. Sau này phỉ chỉ là đám tán quân Tưởng Giới Thạch vô chủ, âm mưu cát cứ và cướp phá. Người các sắc dân vùng biên viễn tham gia hoặc ủng hộ không gọi là thổ phỉ, bởi họ hoạt động trên chính quê hương họ, dù theo mục tiêu có thể do bị tuyên truyền, lừa bịp. Sau này, hai kình địch năm nào là Sùng Dúng Lù (đoàn tiễu phỉ) và người bị ông khuất phục, đầu lĩnh Vàng Vạn Ly đều sống hòa hợp, đã trở thành thông gia với nhau. Con cháu của cả hai nhà đều lần lượt tham gia vào bộ máy chính quyền địa phương Đồng Văn. Sau tan là hợp, hoàn toàn không có chuyện phân biệt nào trong lý lịch của họ.
End of content
Không có tin nào tiếp theo
Xem nhiều nhất
Cây gậy Như Ý có 4 chủ nhân, Tôn Ngộ Không là chủ nhân cuối cùng và là người yếu nhất
Đội quân đất nung ở lăng mộ Tần Thủy Hoàng có thực sự được tạo ra từ cơ thể người sống? Sau khi một chiến binh đất nung bị nứt ra, bí ẩn đã được giải đáp
CLIP: Cuộc chạm trán sinh tử giữa báo và cá sấu, 'vua tốc độ' nhận cái kết đầy bi thảm
Mức cát xê rẻ mạt Lục Tiểu Linh Đồng nhận được sau 6 năm đóng vai Tôn Ngộ Không, còn không đủ tiền lấy vợ
Những loài động có thể sống sau khi bị chặt đứt đầu, con người ở mức thấp nhất
Tại sao đàn ông cổ đại thích cưới những cô gái 13, 14 tuổi? Có ba lý do chính, mỗi lý do đều rất thực tế!